2019

Từ vụ Scarborough, Việt Nam cần khởi kiện ngay Trung Quốc

Lý Thái Hùng / Web Việt Tân| Sự kiện nhà cầm quyền CSVN đã đưa ra tuyên bố đến ba lần, từ ngày 16 đến 27 tháng Bảy vừa qua, để yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan HD 8 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, trong đó có Bãi Tư Chính, là một hành động tích cực. Hành động này cho thấy lãnh đạo CSVN đã nhìn ra bài học của Philippines, khi Bắc Kinh dùng chiến thuật đưa nhiều tàu: hải giám, kiểm ngư và đánh cá trá hình đến bao vây bãi cạn Scarborough, đánh bật Philippines ra khỏi khu vực này. Việc nhà cầm quyền Trung Cộng cố tình phớt lờ yêu cầu của Hà Nội, tiếp tục duy trì tàu hải giám và cho giàn khoan HD 8 di chuyển quanh khu vực Bãi Tư Chính như hiện nay, cho thấy là Bắc Kinh vẫn nuôi ý đồ chiếm khu vực này. Nếu Việt Nam không nhanh chóng lên phương án kiện Trung Quốc để lôi kéo Tòa Án Trọng Tài Liên Hiệp Quốc (PCA) thì khó ngăn chặn tham vọng của Bắc Kinh. Khủng hoảng Scarborough nổ ra khi máy bay tuần tra của hải quân Philippines phát hiện 8 tàu cá Trung Quốc gần bãi cạn Scarborough vào ngày 8 tháng TƯ, 2012. Lập tức, Manila đã cử soái hạm BRP Gregorio del Pilar tiếp cận và bắt các ngư dân Trung Quốc. Bắc Kinh đã phản ứng bằng cách vừa cáo buộc Philippines đã đem tàu hải quân để quân sự hóa tranh chấp, vừa điều tàu hải giám đến ngăn chặn Philippines bắt ngư dân. Kể từ đó, hai bên bị lôi vào cuộc tranh chấp chủ quyền quyết liệt ở bãi cạn Scarborough. Chiến thuật của Bắc Kinh dùng trong vụ chiếm bãi cạn Scarborough là huy động một số lượng tàu đông gấp nhiều lần so với số tàu mà Philippines đưa tới để giải cứu soái hạm BRP Gregorio del Pilar. Sau đó, tàu hải giám Trung Quốc đã phối hợp với các ngư dân của họ, bất ngờ dựng lên một hàng rào dây thừng quanh bãi cạn Scarborough để cô lập ngư dân Philippines. Song song, Bắc Kinh gây áp lực kinh tế bằng cách làm khó vụ nhập khẩu chuối từ Philippines và nhất là cắt giảm các phi vụ của hãng hàng không Trung Quốc đến Manila, khiến cho số lượng du khách Trung Quốc đến Philippines sụt giảm đột ngột. Trong bối cảnh căng thẳng đó, Philippines đã phải nhờ Hoa Kỳ đứng làm trung gian đàm phán. Sau nhiều tuần lễ nhóm họp, Bắc Kinh và Manila đã đồng ý một thỏa thuận là sẽ cùng rút lui khỏi khu vực tranh chấp. Thật ra, trong trận đấu liên tục từ đầu tháng Tư đến giữa tháng Sáu, 2012, Philippines kiệt sức vì bị lấn át về số lượng tàu để canh giữ, nên đã lấy lý cớ tránh bão để rút các tàu ra khỏi bãi cạn Scarborough sau khi có thỏa thuận; trong khi đó Trung Quốc vẫn giữ lại 6 tàu (gồm 3 tàu hải giám, 3 tàu ngư chính) tại bãi cạn và 26 tàu các loại khác hiện diện chung quanh khu vực bãi cạn. Sau khi tàu của Philippines rút đi, Trung Quốc cho xây dựng một rào chắn tại lối vào nhỏ của bãi cạn. Bắc Kinh cho một số tàu chấp pháp canh gác ngay lối vào này để ngăn chặn những tàu đánh cá của ngư dân Philippines tiếp cận khu vực. Kể từ cuối tháng Sáu, 2012 trở đi, Philippines coi như mất quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough mà Manila đã tuyên bố chủ quyền từ năm 1946. Chính vì hành động xâm lược trắng trợn này mà Philippines đã nộp đơn lên Tòa Trọng Tài Thường Trực Liên Hiệp Quốc (Permanent Court of Arbitration – PCA) để khởi kiện Bắc Kinh theo Công Ứớc Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) vào ngày 22 tháng Giêng, 2013. Trung Quốc không tham gia vào vụ kiện và đến ngày 12 tháng Bảy, 2016, Tòa Trọng Tài Thường Trực đã công bố Philippines thắng kiện Trung Quốc về tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Tòa phán quyết rằng: Trung Quốc không có “các quyền lịch sử” dựa trên cái gọi là bản đồ “đường chín đoạn” như đã rêu rao, và việc xây dựng các đảo nhân tạo là trái phép. Với kinh nghiệm của Philippines, đây là lúc Việt Nam phải sử dụng biện pháp pháp lý hơn là dùng công hàm ngoại giao hoặc hô hào chống đối theo kiểu xoa dịu sự phẫn nộ của người dân. Nếu thật sự nhà cầm quyền CSVN nhận thức rằng đoàn kết dân tộc là vũ khí sắt bén nhất để bảo vệ sự tồn vong của đất nước và lãnh hải, thì đây là cơ hội tốt nhất để Bộ Chính Trị CSVN can đảm khởi kiện Bắc Kinh trước tòa án PCA. Lý do là những phản ứng yếu ớt hiện nay chỉ càng khiến Trung Quốc nhún vai, cười khẩy và lì lợm hơn trong quyết sách cướp biển trắng trợn của họ từ bấy lâu nay mà thôi. Lý Thái Hùng https://viettan.org/tu-vu-scarborough-viet-nam-can-khoi-kien-ngay-trung-quoc/  
......

Vĩnh biệt Tiến sĩ, nhà văn, nhà dân chủ Nguyễn Thanh Giang

  Chú Tễu| Chúng tôi vô cùng kính tiếc báo tin Tiến sĩ Địa Vật lý, Nhà thơ NGUYỄN THANH GIANG Sinh ngày 6/7/1936 tại Thanh Hóa, Nguyên Ủy viên Thường vụ Hội Địa Vật lý Việt Nam, Hội viên Hội Địa Vật lý Thăm dò Hoa Kỳ. Một nhân sĩ yêu nước và hết lòng đóng góp cho công cuộc dân chủ hoá đất nước. đã từ trần vào hồi 4h00 sáng ngày 28/7/2019 (tức ngày 26/6 năm Kỷ Hợi). Hưởng thọ 84 tuổi. Lễ viếng sẽ được tổ chức vào 7h30 - 9h30 ngày 2/8/2019 (tức ngày 2/7 năm Kỷ Hợi) tại Nhà tang lễ Cầu Giấy phố Trần Vĩ, Phường Mai Dịch, Quận Cầu Giấy, Hà Nội. **** Kính cẩn vĩnh biệt Tiến sĩ, Nhà văn Nguyễn Thanh Giang. Cầu nguyện linh hồn của nhà trí thức, nhà dân chủ, nhà thơ thanh thản về nơi an nghỉ vĩnh hằng. Thành kính chia buồn cùng gia đình và bằng hữu, các đồng chí của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang. ***** Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, ngôi sao sáng mãi trong ‘Đêm dày lấp lánh’ Cát Linh – Người Việt| Tiến sĩ, nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Thanh Giang, một trong những con chim đầu đàn của phong trào đấu tranh dân chủ vừa qua đời lúc 4 giờ sáng Chủ Nhật, 28 Tháng Bảy, 2019, thọ 84 tuổi. Tin do gia đình của ông kính đưa lên trang Facebook mà lúc sinh thời ông sử dụng. Ngay sau đó, mạng xã hội của những nhà đấu tranh dân chủ, đồng nghiệp, bạn bè của Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang đều chia sẻ những dòng phân ưu. Facebook của cựu tù chính trị Phạm Thanh Nghiên kể lại: “Từ những năm phong trào đấu tranh còn ít người dám dấn thân, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, giáo sư Hoàng Minh Chính, cựu Đại tá công an Lê Hồng Hà và nhà văn Hoàng Tiến được xem như “bộ tứ dân chủ” gây không ít khó khăn, khổ sở cho nhà cầm quyền. Cũng giống như ông Hoàng Minh Chính và ông Lê Hồng Hà, ông Nguyễn Thanh Giang cũng từng phải đi tù để trả giá cho những việc làm can đảm và chính nghĩa của ông. Tôi có nhiều kỷ niệm với nhà hoạt động gạo cội này và may mắn được ông yêu thương, chỉ bảo ngay từ những bước chân đầu tiên chập chững bước vào con đường chông gai này.” Nay, ông là người cuối cùng trong “bộ tứ dân chủ” ra đi. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang là ai? Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang sinh năm 1936 tại Thanh Hóa. Nhiều người biết đến Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang trước hết là một nhà khoa học chuyên ngành Địa chất – Vật lý. Trong tài liệu về ông có cho biết ông là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên trong ngành địa chất được một tổ chức khoa học kỹ thuật của Liên Hiệp Quốc mời trình bày về Cổ từ học trong Hội thảo quốc tế ở Kuala Lumpur năm 1980. Đến khi ông về hưu năm 1996, mọi người bắt đầu biết đến ông là một nhà bất đồng chính kiến với những hoạt động nhằm cống hiến cho nền dân chủ. Từ năm 1996, ông viết nhiều bài chỉ trích Đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1999, chính quyền Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt ông và giam giữ ông gần ba tháng. Sau khi ra tù, ông sống tại Hà Nội và luôn bị những biện pháp canh giữ gắt gao của chế độ, thậm chí còn bị công an trấn áp tinh thần bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Người tin vào sức mạnh dân chủ Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang kiên quyết theo đuổi phong trào đấu tranh dân chủ với phương pháp hoàn toàn bất bạo động, thể hiện qua những bài viết, thư từ góp ý gửi đến các nhà lãnh đạo Đảng, nhà nước. Ông sử dụng văn phong ôn hoà, chỉ rõ những tình trạng tiêu cực trong bộ máy công quyền, nêu ra những đường lối ông cho là cần phải thay đổi để dẫn đến nền dân chủ. Một trong những cách đó là tờ báo Nguyệt san Tổ quốc do ông và cựu đại tá Phạm Quế Dương thành lập, là nơi đăng tải bài viết của các nhà đấu tranh trong nước. Tờ báo Tổ Quốc ra đời cũng là lúc Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, cựu Đại tá Phạm Quế Dương và kể cả những cây viết góp phần trong đó bị sách nhiễu, đàn áp nặng nề, vì họ nói lên những điều không bao giờ đăng tải trên “truyền thông lề phải.” Năm 2002, nhân thời điểm cựu Đại tá Phạm Quế Dương, nguyên Tổng biên tập Tạp Chí Lịch Sử Quân Sự thuộc Viện Lịch Sử Quân Sự, Tổng Cục Chính Trị của Cộng Sản Việt Nam, Đảng viên ĐCS 50 năm quyết định trả thẻ Đảng để phản đối việc ông Trần Độ bị khai trừ Đảng (4 Tháng Giêng 1999,) ký giả Phan Dũng của Ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn TS Nguyễn Thanh Giang. Những chia sẻ của ông 17 năm trước đã cho thấy một viễn cảnh rất rõ của chế độ độc đảng Việt Nam. Không những thế, những lời của TS Nguyễn Thanh Giang nói với ký giả Phan Dũng ngày đó như một lời tiên tri về vận mệnh của những tri thức Đảng viên ĐCS mấy mươi năm sau. Ông nói với ký giả Phan Dũng, ông đã đến thăm ông Trần Độ và nói với ông Độ: “Nên xem việc bị khai trừ là bình thường và ông Trần Độ thế nào thì cứ là ông Trần Độ như thế thì ông Độ sẽ đi vào lịch sử.” Đó chẳng phải lời tiên tri hay sao? Theo ký giả Phan Dũng, ông Giang còn cho biết là ông đã nói cho giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam biết là họ đừng làm thế (khai trừ ông Độ), chẳng có lợi gì cho họ, vì chỉ gây nhiều buồn phiền cho những người có thiện tâm, những người sống có tình có nghĩa vì ai cũng đều thấy việc ông Trần Độ lên tiếng cho tự do dân chủ là xứng đáng làm. “Năm đó, ông Giang bảo, chẳng riêng ông Phạm Quế Dương trả thẻ đảng, mà còn có đảng viên khác đã tỏ sự ủng hộ ông Trần Độ, nhưng ông Giang không quan tâm lắm đến vấn đề này, vì trong đất nước ta hiện nay còn có nhiều vấn đề khác đáng lo hơn nhiều, ông Trần Độ chỉ là một trong những vấn đề nổi cộm trong nhiều vấn đề khác phải lo lắng. Đó là các vấn đề ai cũng biết rồi. Vụ Thái Bình, Uy Nỗ, những thứ ấy đều là vấn đề cả chứ. Tôi hỏi ông Giang rằng trong tình huống hiện nay, liệu Việt Nam có yếu tố Gorbachev không, có yếu tố Ceaucescu không, có yếu tố Thiên An Môn không, ông trả lời rằng “chả cái gì rõ cả, nhưng cái gì cũng có, cũng giống như ngành địa chất học, nhiều chỗ tưởng không có mỏ, nhưng nếu huy động đủ trí tuệ thì có khi nó bùng nổ thành cuộc cách mạng đại kỹ nghệ. Ông Giang cười sảng khoái nhận định như thế.” Ký giả Phan Dũng kể lại. “Nhưng nếu huy động đủ trí tuệ thì có khi nó bùng nổ thành cuộc cách mạng đại kỹ nghệ.” Lời của ông chẳng phải lời tiên tri về vận mệnh dân tộc ngày nay hay sao? Không biết vì đâu, hay từ đâu, mà khoảng gần 20 năm trước, ông đã có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh nhân dân, sức mạnh dân chủ. Trả lời ký giả Phan Dũng về vận mệnh nước Việt sẽ ra sao nếu giới lãnh đạo vẫn độc tài không di theo xu hướng chung của nhân loại? Liệu có như tình hình Indonesia, như Kosovo? TS Nguyễn Thanh Giang nói: “Tuy lo âu thế nhưng tôi vẫn tin vào nhân dân tôi, tin ở dân tộc tôi. Đến một lúc nào đó thì sẽ có một sự phát biểu chính thức của quần chúng, của nhân dân, của dân tộc. Lúc bấy giờ tôi cho là nhân dân tôi sẽ quyết định. Đến giờ phút quyết định, khi nhân dân thấy rằng không còn chịu đựng được nữa, thì nhân dân sẽ có biện pháp của nhân dân.” Đã một lần ‘chào vĩnh biệt’ Năm 2013, ông trải qua một cơn tai biến. Từ đó sức khoẻ của ông kém dần đi. Bốn năm sau đó tuy có thể tự mình đi lại đôi chút, nhưng bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, vợ của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang cho biết ông vẫn trong tình trạng quên trước, nhớ sau. “Thỉnh thoảng ông lại nói cho tôi liều thuốc mê, cho tôi đi hiến tạng.” Bà Tuyết Mai nói. Năm 2017, có một thời điểm tưởng như ông đã phải rời cõi tạm, khi mà lúc đó, chính ông đã có đôi lời gửi đến mọi người và ông gọi đó là “chào vĩnh biệt” do sức khoẻ không được tốt. Khi ấy, qua một video do dịch giả Phạm Nguyên Trường ghi lại và đưa lên mạng xã hội, bằng giọng nói rất yếu, đôi mắt thì nhắm nghiền, Tiến Sĩ Phạm Thanh Giang chia sẻ với những người ở lại: “Tôi ân hận là tôi còn một cuốn nữa, đó là Tuyển tập, tuyển lựa chiến tranh, tập hợp tất cả những ý kiến của tôi phát biểu với đất nước, đóng góp với Đảng cộng sản Việt Nam cho nhân dân để làm sao để cho có những bạn trẻ thu thập lại… Tất cả những ý kiến ấy, có những ý kiến không đúng, không thực tế nhưng chắc chắn có nhiều ý kiến đúng đắn. Tôi mong các thế hệ sau hãy nghiên cứu những cái đó để có thể sử dụng những gì có ích cho nhân dân, cho đất nước, thì tôi về bên thế giới bên kia tôi thấy sung sướng lắm.” Trong giây phút thập tử nhất sinh, lời chào vĩnh biệt mọi người của ông khi đó chính là ông nhắc đến đứa con tinh thần của mình, cuốn sách “Đêm dày lấp lánh” – tâm huyết trong suốt những năm tháng đấu tranh của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang. Ông viết về những gương mặt dấn thân cho một nền dân chủ. “Mong rằng cuốn sách ấy sẽ đi vào lịch sử. Thế hệ sau sẽ nhớ lại chúng ta đã làm những gì? Chúng ta đã có những người kiên cường chứ không phải những người đê hèn chỉ biết sống cho cá nhân mà không biết hy sinh cho xã hội.” Ông nói. “Tôi thương yêu mọi người. Tôi yêu quí mọi người. Cho tôi xin được gửi lời chào vĩnh biệt mọi người.” Lời chào tạm biệt mọi người 3 năm trước của ông nay đã được thực thi. Nhưng, những người trẻ, thế hệ dấn thân tiếp nối sẽ thực hiện ước nguyện ông để lại. Họ sẽ tiếp tục đi theo con đường ông đang đi, theo như lời của nghệ sĩ Kim Chi từng nói: “Trở thành những ngôi sao lấp lánh trong đêm dày cộng sản.” Lễ viếng sẽ được tổ chức vào 7h30 – 9h30 ngày 2 Tháng Tám, 2019 (tức ngày 2 Tháng Bảy năm Kỷ Hợi) tại nhà tang lễ Cầu Giấy phố Trần Vĩ, phường Mai Dịch, Cầu Giấy./.
......

Đón mừng Tù nhân lương tâm Nguyễn Nam Phong trở về nhà.

Lê Văn Sơn| Hôm nay Chủ Nhật ngày 28/7/2019, tù nhân Formosa Nguyễn Nam Phong được về nhà vào lúc 8h sáng sau 2 năm tù oan sai cộng sản áp đặt cho anh. Năm 2017, anh Phong đã giúp dân đi kiện Formosa, là người lái xe cho Linh mục Nguyễn Đình Thục lúc bấy giờ. Chính vì vậy cộng sản đã bắt giam anh cùng với Tù nhân lương tâm Hoàng Đức Bình. Trong 2 năm anh Phong bị cộng sản cầm tù cũng thời gian anh bị đã mất đi 2 người vô cùng yêu quý là bố và cô con gái đang tuổi lớn khôn. Giờ đây anh chỉ còn nhìn thấy hai nấm mồ trơ chọi giữa đất trời. Nỗi đau quặn thắt trong tim của anh Phong là cộng hưởng, dồn nén 2 nỗi đau lớn lao khi mất đi người bố và cô con gái của mình chắc không có gì khỏa lấp cho vơi. Xin được chào đón anh trở về trong tình thương và lòng yêu mến của gia đình, bằng hữu, anh chị em trong nước cũng như hải ngoại. Cũng xin được cảm ơn anh vì sự dấn thân cho quê hương Việt Nam, và chia sẻ nỗi đau mất mát người thân đã ra đi mãi mãi mà anh không được nhìn mặt lần cuối. Người cha quỳ trước di ảnh con gái thơ dại Lòng đau quặt thắt như xé nát tâm can Còn đâu con hỡi, tim cha trăm chiều tê tái Về đây cha thấy con Từ đây cha mất con...
......

Đất Nước của những oan hồn ......

Nguyễn Thùy Dương| Đối với cá nhân tôi, bất kỳ ai chết đi vì dân, vì nước đều được gọi là liệt sĩ, đều xứng đáng được tôn trọng. Dù là phe nào đi nữa xin bạn đừng rủa xả những tử sĩ đã hy sinh xương máu vì lý tưởng bảo vệ Nhân Dân, Đất Nước. Con đường có thể không đúng nhưng lý tưởng, nhiệt huyết, tình yêu thương của họ mãi đáng trân trọng. Họ đã nằm xuống nơi chiến trường thì đúng sai, đẹp xấu cũng gấp lại. Quan trọng là kẻ trong hiện tại sống và cống hiến ra sao để hậu thế không nhìn việc hiện tại mà nguyền rủa tiền nhân. Tôi đã đến Nghĩa trang Biên Hòa và cũng đến Ngã Ba Đồng Lộc. Tôi đã nhìn vào bia tưởng niệm của mười cô gái trẻ, phía sau là 10 ngôi mộ nằm giữa núi rừng miền Trung. Họ trẻ, còn rất trẻ. Tôi dám chắc rằng họ ra đi chỉ đơn giản với ý nghĩ báo ân đất nước, thống nhất đất nước. Trong họ chưa từng có ý nghĩ " cướp" của ai cả. Họ là những cô gái Thanh Niên Xung Phong với nhiệt huyết tuổi trẻ dâng tràn, với mong muốn phục vụ Nhân Dân. Miền Nam trong họ chỉ là những lời kể, giữa bóng tối thăm thẳm của núi rừng họ cần mẫn lao động mà không màng đến danh lợi. Lực lượng Thanh Niên Xung Phong hôm nay có thấy hổ thẹn với tiền nhân hay không ? Khi các doanh nghiệp TNXP liên tục báo lỗ, liên tục sai phạm ? Lý tưởng ban đầu ra đi là gì ? Lời hứa với Nhân Dân để đâu ? Nếu ngày đó, người dân Cát Lái biết được chính quyền sau nầy lấy đất của mình hoán đổi cho người nhà cán bộ. Họ sẽ lựa chọn ra sao ? Nếu họ biết Quân Đội kết hợp với Chính Quyền thu hồi đất của họ rồi đền như bố thí. Mặc kệ họ đồng ý hay không để xây dựng Cảng Cát Lái kinh doanh thu lãi. Liệu bộ đội có nằm vùng được ở Cát Lái hay không ? Nếu dân Vùng Bưng Sáu Xã biết con cháu của họ bị " cưỡng chế quy hoạch" thì họ có mở đường cho Cách Mạng hay không ? Những kẻ phá hại Đất Nước hôm nay được bao nhiêu người từng cầm súng bảo vệ Nhân Dân ? Hay các vị là những kẻ kế thừa ? Người nằm xuống chỉ mong Nhân Dân no ấm, giàu mạnh. Tôi chắc rằng họ không mong các vị xây tượng đài gây nợ cho họ, gây đói nghèo cho Nhân Dân. Đừng mạo danh tiền nhân như thế ! Đừng dâng hoa, thắp hương, đừng ca hát vinh danh tiền nhân để rồi sau đó làm những hành động gây ô nhục ngàn đời cho họ. Âm siêu - Dương thới. Những âm hồn vật vã vì Đất Nước bị phá nát đêm đêm ai oán khắp non sông. Liệu rồi Dương ( gian ) có thới ( thái bình) được không ?
......

Việt Nam là chim ưng hay bò sát?

Đất nước Việt Nam của chúng ta chỉ có thể phát triển theo kiểu “bò sát” mà không thể thành chim ưng! nguyenvandai’s blog – RFA Có một câu nói nổi tiếng được nhiều người biết đến: “Những đỉnh cao muôn trượng chỉ có chim ưng và loài bò sát là vươn tới được”. Để xây dựng được đất nước cường thịnh, Việt Nam chọn chim ưng hay bò sát? Tất nhiên là người dân Việt Nam ai cũng mong muốn chọn chim ưng, nhưng dưới sự cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), liệu mong muốn của người dân có thể đạt được? Có bốn yếu tố căn bản để xây dựng một quốc gia từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một quốc gia thịnh vượng: Thứ nhất là tài nguyên thiên nhiên; thứ hai là vị trí địa lý chiến lược; thứ ba là con người; và cuối cùng là thể chế chính trị. Nếu so với những cường quốc kinh tế trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore thì Việt Nam có được 2 yếu tố là tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý chiến lược mà ba quốc gia trên thèm muốn. Về yếu tố con người, nếu người Việt Nam được học tập cùng một nền giáo dục như các quốc gia trên thì không hề thua kém họ. Sự khác biệt duy nhất đó là thể chế chính trị. Bốn cường quốc kinh tế trên theo thể chế chính trị dân chủ đa đảng. Còn Việt Nam theo thế chế chính trị độc đảng chuyên chế. Trong thể chế chính trị độc đảng chuyên chế, quyền lực tuyệt đối nằm trong tay đảng CSVN. Triết gia Lord Acton đã nói: “Quyền lực làm con người tha hóa. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối.” Và thực tiễn trong chế độ cộng sản tại Việt Nam đã chứng minh sự đúng đắn của triết lý trên. Do quyền lực tuyệt đối nằm trong tay đảng CSVN nên đã tạo ra đội ngũ quan chức từ trung ương tới địa phương bị tha hóa, hủ bại một cách toàn diện về nhân cách, lối sống. Báo Tienphong.vn trong bài “Tệ mua quan, bán chức” của Đại biểu Quốc hội Lê Văn Cuông viết: “Báo cáo của các cơ quan Nhà nước đã thừa nhận có hiện tượng “chạy” chức, “chạy” quyền, “chạy” tội, “chạy” dự án, “chạy” bằng cấp, “chạy” khen thưởng và kể cả chạy tuổi nữa”. Phần lớn quan chức, bao gồm cả quan chức trong Ban chấp trung ương, Bộ chính trị tiến thân bằng con đường “mua quan, bán chức”. Bài viết “Tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam trực thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam viết: “Để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý cần phải có trình độ tư duy lý luận chính trị cao. Tuy nhiên, trình độ tư duy lý luận chính trị của nhiều người còn thấp kém…”. Mặc dù đội ngũ quan chức của tỉnh Đắc Lắc có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị trở lên là 95,58%. Nhưng cũng tại tỉnh Đắk Lắk, thông tin truyền thông đăng tải như sau: “Kỷ luật Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lăk; lãnh đạo huyện Krông Pắk” (Baochinhphu.vn 13/04/2018) “Xem xét kỷ luật nguyên Viện trưởng Viện KSND tỉnh Đắk Lắk”, (Daidoanket.vn12/09/2018) “Đắk Lắk kỷ luật, khai trừ ra khỏi Đảng hàng loạt đảng viên” (Vtc.vn 02/04/2019) “Kỷ luật nhiều lãnh đạo Cty Quản lý công trình thủy lợi Đắk Lắk” (Laodong.vn 07/12/2018) “Đắk Lắk: Hàng loạt cán bộ biên phòng dính kỷ luật” (vanhoadoanhnghiepvn.vn) Chúng ta có thể thấy khi đa số các quan chức phải “chạy chức, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng,…” thì cho dù họ có được đào tạo trình độ lý luận cao. Nhưng sống và làm việc trong môi trường chính trị không minh bạch, không trong sạch thì họ cũng không thể giữ được sự thanh liêm của mình. Chế độ CSVN cũng nhận thấy đội ngũ quan chức của họ yếu kém nên hàng năm nhà cầm quyền CSVN đã chi không ít tiền thuế của Nhân dân cho các quan chức ra nước ngoài “học tập kinh nghiệm” hoặc “trao đổi chuyên môn”. Nhưng thực tế như thế nào? Báo Nld.com.vn đăng tải kết luận của Thanh tra Chính phủ về việc cử cán bộ đi nước ngoài giai đoạn 2012-2016 như sau: “Trong vòng 5 năm, các đơn vị (bộ, ngành, địa phương – NV) đã cử hơn 17.500 đoàn, gần 53.000 lượt cán bộ đi nước ngoài với tổng kinh phí trên 1.200 tỉ đồng. Thành phần tham gia là người chuẩn bị nghỉ hưu hoặc đã nghỉ hưu”. Báo Tienphong.vn viết: “Thanh tra Chính phủ cũng từng có kết luận thanh tra về việc này, đồng thời chỉ ra “nhiều đoàn có thành phần là những người chuẩn bị nghỉ hưu cho đi nước ngoài mang tính “tri ân”, mời thành phần là người của đơn vị khác không phù hợp nội dung chuyến đi…”. Sau khi có kết luận trên, chính TTCP cũng đã cử nhiều cán bộ thuộc diện sắp nghỉ hưu đi nước ngoài công cán”. Qua thực tế trên cho chúng ta thấy, quan chức cộng sản chỉ lợi dụng chức quyền để phục vụ và thỏa mãn các nhu cầu cá nhân của họ. Họ chẳng hề quan tâm đến hiệu quả chi tiêu từng đồng tiền thuế của người dân. Cựu Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng năm 2014 tham gia tới 23 đoàn đi nước ngoài, năm 2015 tham gia 22 đoàn. Riêng năm 2015, tổng số thời gian ông Hoàng ở nước ngoài là 163 ngày, chiếm hơn nửa thời gian làm việc trong năm. Đi nước ngoài nhiều nhưng không học được cách quản trị hành chính và kinh tế hiệu quả. Nên hậu quả là: Ngày 9 tháng 7 năm 2019 , Bộ trưởng Bộ công thương Trần Tuấn Anh đã công bố 12 dự án của Bộ Công thương dưới thời ông Vũ Huy Hoàng đã thua lỗ 63 ngàn tỷ đồng. Năng lực quản lý yếu kém của các quan chức cộng sản có thể kiểm chứng bằng tốc độ rùa bò tại không ít dự án kinh tế, kỹ thuật hay công trình trọng điểm mà họ chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc liên đới. Chỉ một đoạn đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông  dài 13,1 km được khởi công vào ngày 10/10/2011 đến nay đã gần 8 năm vẫn chưa thể đưa vào sử dụng. Vốn đầu tư sau nhiều lần điều chỉnh đã lên khoảng 892 triệu USD, quy ra tiền Việt là xấp xỉ 20.000 tỷ đồng. Còn rất nhiều các ví dụ về sự tha hóa và hủ bại của các quan chức cộng sản từ cấp cao đến các ngành, các địa phương như: cựu ủy viên Bộ chính trị Đinh La Thăng, cựu ủy viên trung ương Tất Thành Cang, các quan chức của ngành dầu khí, các tướng lĩnh của Bộ công an như Trần Việt Tân, Bùi Văn Thành, Phan Văn Vĩnh,… Các tướng của Bộ Quốc phòng như trung tướng Nguyễn Văn Hiến, Nguyễn Văn Tinh… Những quan chức này đã bị truy tố và xét xử hoặc bị cắt hết mọi chức vụ. Ông Nguyễn Phú Trọng đã tự thừa nhận khi nhận chức Chủ tịch nước rằng: “tuổi cao, sức yếu, năng lực hạn chế”, nay lại thêm bệnh tật nhưng vẫn ôm khư khư hai chức vụ cao nhất của đảng CSVN và nhà nước. Chúng ta gọi đây là tham nhũng quyền lực. Người xưa có câu: “Tâm tối thì trí mờ”. Với đội ngũ quan chức luôn đặt lợi ích của họ và quyền lực của đảng CSVN lên trên lợi ích của Nhân dân và Tổ quốc thì trí tuệ của họ sẽ bị mờ tối nên không thể lãnh đạo đất nước cường thịnh được. Vậy nên đất nước Việt Nam của chúng ta chỉ có thể phát triển theo kiểu “bò sát” mà không thể thành chim ưng! nguyenvandai’s blog  
......

Khoảng Lặng Nguyễn Phú Trọng

Nguyễn Tiến Tường| Đầu năm 2017, TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc, một chuyến đi mang tính lệ thường giữa lãnh đạo hai đảng. Từ năm 2018 khi chấp chính chức Chủ tịch nước, ông Trọng không còn đi TQ và cũng không có cuộc tiếp xúc nào với giới cầm quyền TQ tại Việt Nam. Nhắc cương vị Chủ tịch nước để hiểu rằng đó là danh phận để ông Trọng tiếp cận các nước Tây phương với tư cách nguyên thủ chính danh chứ không đơn thuần là TBT một đảng. Diễn đàn "Một vành đai, một con đường" được TQ tổ chức trong bối cảnh liên tiếp dính đòn trừng phạt kinh tế từ Mỹ có thể xem là động thái đốt lửa gọi chư hầu. Ông Trọng vắng mặt, TT Nguyễn Xuân Phúc tham dự, cùng thế giới có thông điệp rắn rỏi lên án TQ sử dụng bẫy nợ để ép buộc các quốc gia nhượng địa hoặc lệ thuộc chính trị. Lần đầu tiên sau miên mãi năm tháng chịu đựng, cuộc chiến 1979 được chỉ mặt đặt tên là cuộc xâm lược của người TQ. Luật đặc khu trì hoãn khi đối mặt nguy cơ nhượng địa. Và khi bà Nguyễn Thị Kim Ngân đi TQ trong lúc TBT Nguyễn Phú Trọng úp mở về cuộc đi Mỹ, người TQ có vẻ như nóng mặt gây hấn biển Đông để đe nẹt và "đòi người". Lần đầu tiên sau nhiều năm, Việt Nam trao công hàm phản đối TQ. ................ Điểm lại một số sự kiện khách quan để công nhận rằng đây đang là thời đoạn mà Việt Nam có thái độ rắn rỏi, dứt khoát nhất với Trung Quốc trong vòng nhiều thập niên. Và cũng chứng minh được rằng người TQ đang bối rối. Việt Nam dần trở nên khó lường với họ, tương tự như hình ảnh của ông Trọng. Nếu có một chuyến đi Mỹ của Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong thời gian tới, quốc gia sẽ mở ra nhiều hy vọng. Đó không chỉ là tìm kiếm đồng minh tạo đối trọng với người TQ trên biển Đông mà còn là cuộc "giác ngộ" hiện thực trong nước. Khác với chiếc áo vét công chính nặng tính mô phạm của ông Trọng, quyền lực chính trị đơn nhất của hệ thống đã tạo chiếc đũa thần cho những người dưới ông tạo phe cánh lợi ích. Không những vậy, chính quyền uy đó đã giúp họ mở toang cánh cửa để "cõng rắn cắn gà nhà", mời người Tàu đến xâm thực bằng vốn và phá hoại kinh tế. Quốc gia bị vắt kiệt, niềm tin khô hạn, đảng và nhân dân đồng sàng dị mộng. Thảm trạng đó sẽ dẫn đến sự suy giảm sức hấp dẫn trong cuộc chơi với người Mỹ. Và suy cho cùng, muốn người Mỹ ngồi xuống, Việt Nam không có gì khác để mặc cả với họ ngoài dân chủ và nhân quyền. Rất khó để tất tay niềm tin vào TBT Nguyễn Phú Trọng khi ông luôn cho thấy sự nhùng nhằng giữa đảng và dân tộc, ông đã không chọn một cảm xúc tuyệt đối. Nhưng ham muốn vĩ nhân là điều có thể đọc vị từ ông. Thực tiễn đã cho thấy rằng con đường của các "vĩ nhân đỏ" trên thế giới luôn phải đổi bằng xương máu của nhân dân và nó không còn phù hợp trong thời đại mới. ........... Tin hay không tin, ghét hay không ghét ông Nguyễn Phú Trọng thì cũng phải mặc nhiên công nhận rằng đây là kỷ nguyên mà quốc gia có nhiều tín hiệu thức tỉnh. Và cũng như người cầm trịch, quốc gia hỗn loạn ấy cần một khoảng lặng dài hơn để định hình tâm thế "xoay trục". Ngồi xuống với nhau trong tấm áo phụng sự quốc gia !  
......

Vị Thế Yếu Nhược

Luân Lê Biểu tình bằng cách mặc áo đoàn, đảng vào ngồi trong phòng lạnh giơ băng rôn, biểu ngữ phản đối hành động xâm phạm của Trung Quốc đối với vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam là một hành động làm tổn hại và xấu xí thể diện quốc gia. Không một sự lên tiếng nào hoặc là sự phản đối nào lại đáng xấu hổ hơn là vào trong phòng và tự đứng lên hô hào với nhau. Những kẻ xâm phạm chúng sẽ coi khinh cái hành động “chui núp” trong xó nhà đó để bày tỏ quan điểm hay sự phản kháng - nó thể hiện sự hèn nhược và không có giá trị gì, nó khiến người chứng kiến thấy đó như một trò đùa vậy. Đứng trong phòng và căng băng rôn với nhau, trong khi kẻ cướp là một chế độ của quốc gia khác thực hiện, thế có phải là ngay tại quê hương và trong lòng tổ quốc mình mà còn không cả dám bày tỏ và thể hiện quan điểm của mình một cách công khai và rõ ràng. Nó cho thấy vị thế yếu kém tới mức nào của một xã hội và thể chế đó? Chúng ngang nhiên xâm phạm, cướp bóc được, mà ta thực hiện hành vi phản kháng và phòng vệ chính đáng trước chuyện chủ quyền mà lén lút và sợ sệt như kẻ mất cắp. Không thể nào hiểu được cung cách tổ chức này. Hiến pháp và luật quốc tế cho con người ở mọi quốc gia quyền biểu tình công khai và chính thức, mà sao phải làm theo cách mà nó không thể nào còn tệ hơn được nữa. Những con rô bốt mặc áo xanh như những cỗ máy chỉ biết nghe lời và theo kế hoạch. Đám ấy thì không trông cậy gì vào được ngoài việc làm tay sai và phục dịch.  
......

Hãy để nhân dân yêu lấy Tổ Quốc của mình

Luân Lê|   Khi một chính quyền mà một lãnh đạo cao cấp nhất (cả về Đảng (uỷ viên BCT) lẫn chính quyền tại địa phương) còn phải nói với người dân, trong một sự vụ, rằng “tôi không gạt bà con đâu” thì đủ hiểu niềm tin là một thứ xa xỉ tới mức nào. Cách đây khá lâu rồi, tôi đã từng viết với đại ý rằng: Hãy để nhân dân yêu lấy Tổ quốc của mình. Và nó được hiểu và biểu hiện thế nào, tình yêu ấy của nhân dân? Đó là khi họ lên tiếng không bị quy vào tội phạm hình sự; khi họ đi biểu tình phản đối bất công, sai lầm hoặc sự tha hoá quyền lực của chính thể họ không bị đánh đập dã man hay bị bắt vứt lên xe buýt rồi đưa về đồn giam, giữ với đủ các chất vấn có tính hình sự và rồi xử phạt họ, nặng thì bắt bỏ tù; đó là khi dân đòi hỏi minh bạch hoặc dân chủ, nói về sự thay đổi thể chế hoặc thực thi các quyền con người trong Hiến pháp thì không bị đưa vào diện thù địch hoặc có mưu đồ lật đổ chính quyền - trong khi ngay cả ông Hồ hay Đảng cộng sản chẳng phải là đã lật đổ những chính quyền mà họ đã cho rằng nó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân nữa trong lịch sử đó sao - tức họ coi đó là một quyền đương nhiên của dân và chính đáng về mặt quyền lực. Hãy để nhân dân yêu lấy Tổ quốc của mình - nơi mà không có những lực lượng bịt mặt đánh đập người đi biểu tình hoặc trong các sự vụ nổi cộm về tính bất hợp lý trong xã hội; lực lượng cảnh sát, an ninh thay vì bắt bớ và ngăn chặn họ thì phải bảo vệ (thân thể và tài sản) của những người biểu tình vào những lúc họ xuống đường bày tỏ tình yêu thiêng liêng và cao quý ấy. Đó chính là cách “Để nhân dân yêu lấy Tổ quốc của mình” và từ đó là “Tự họ sẽ chung tay để bảo vệ Tổ quốc ấy của mình”. Nhà nước này và Đảng cộng sản sống dựa vào và nhờ tất cả ở nhân dân, chứ không thể duy trì quyền lực nhờ vào đám dư luận viên đang nô lệ theo mệnh lệnh của chính quyền. Chúng như những phường giá áo túi cơm, chỉ cần ấm cái bụng là đủ để phản bội lại mọi chân lý và lẽ phải, bán rẻ cả đất nước và tương lai dân tộc. Không dựa vào lực lượng dư luận viên được đâu, chúng sẽ quay lại phản hại lại chủ khi có kẻ nào đó trả giá cao hơn những đồng nhỏ mọn mà chúng nhận được. Và cuối cùng thì, quyền lực và tài sản đều là của nhân dân, cho nên, những kẻ làm tuyên truyền viên không giúp ích gì cho Tổ quốc khi đất nước bị xâm lăng hay rơi vào tình cảnh lâm nguy. Vì vậy “Hãy để nhân dân yêu lấy Tổ quốc của mình”.  
......

Biển Đông và nút thắt chính trị Việt Nam 2020

Thiên Điểu - VNTB| “Việc Trung quốc đưa tàu khảo sát Hải Dương 8 (Haiyang Dizhi 8) được hộ tống bởi tàu quân sự ngang nhiên hoạt động thăm dò trên vùng biển tại bãi Tư Chính trong phạm vi chủ quyền 200 hải lý theo Công ước UNCLOS của Việt Nam đã làm hiện rõ nút thắt sinh tử cho những lựa chọn của chế độ hiện nay ở Việt Nam” Việc Trung quốc ngày càng gia tăng các hành động lấn chiếm trên Biển Đông qua vụ tàu khảo sát Hải Dương 8 (Haiyang Dizhi 8) vốn là hành động có tính toán từ lâu trong tham vọng độc chiếm Biển Đông. Tuy nhiên, vụ việc ngang nhiên vào sâu hẳn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đúng thời điểm này cho thấy chỉ dấu thông điệp của tham vọng ấy đã hoặc sẽ hoàn thành trong tương lai gần. Việc công khai đưa tàu chiến hộ tống tàu Hải Dương 8 có vẻ thể hiện Trung quốc đã sẵn sàng cho hành động  quân sự để hoàn tất đường lưỡi bò trên Biển Đông. Chính vì vậy, vụ việc được quốc tế phát hiện rất sớm và những cường quốc có lợi ích lớn ở Biển Đông đã nhanh chóng có phản ứng mạnh mẽ, trong đó Nga-Mỹ đã đưa ra những cảnh báo cứng rắn vượt xa hơn cả sự kiện Trung quốc vây chiếm bãi cạn Scarborough với Philippin năm 2012. Trên khía cạnh chiến lược chính trị, Trung Quốc hiện gặp bế tắc nghiêm trọng cả về đối nội lẫn đối ngoại. Một mặt, cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung giáng thẳng vào nên kinh tế cú tàn phá ghê gớm. viễn cảnh bị Mỹ và đồng minh cấm vận  nhiều mảng liên quan thương mại là khó tránh khỏi trong tương lai gần. Mặt khác, những mâu thuẫn chính trị đối nội của Trung quốc cũng đang đối mặt với nguy cơ mất kiểm soát do sự gia tăng các hành động phản đối của các sắc tộc ở đất nước đông dân nhất thế giới. Trong đó, thái độ cứng rắn của Đài Loan và phong trào chống lại các đồng hóa về thể chế lẫn chính sách ở Hồng Kông đã đến mức hiện rõ nguy cơ Đài Loan và Hồng Kông tách ra thành  quốc gia độc lập nếu được Mỹ bật tín hiệu bảo trợ hoặc tranh thủ được sự ủng hộ của một vài nước có ảnh hưởng mà tuyên bố của Anh quốc đối với tình hình ở Hồng Kông là tín hiệu rất rõ ràng. Một động thái quân sự đối với Trung Quốc lúc này sẽ giúp chính quyền Trung Quốc cái cớ để ổn định tình hình trong nước đồng thời việc xác lập chủ quyền đường lưỡi bò thành công sẽ là lá bài để Trung Quốc mặc cả với quốc tế về lợi ích thương mại. Vấn đề còn lại là tham vọng của Trung Quốc thành công tới mức độ nào phụ thuộc vào mức độ phản ứng của Việt Nam – quốc gia có diện tích mặt biển nhiều nhất trong tham vọng độc chiếm biển Đông mà Bãi Tư Chính là khu vực chỉ cách điểm xa nhất của đường lưỡi bò chỉ 20 đến 30 hải lý. Yếu tố thời điểm đang thuận lợi nhất đối với Trung Quốc không chỉ  cần thiết trong chiến lược; chiến thuật mà còn gặp thuận lợi lớn từ yếu tố thời điểm chính trị Việt Nam dễ tổn thương nhất. Đối với Việt Nam, khi cuộc khủng khoảng lòng tin đối với đảng cộng sản đã đến đỉnh điểm do vấn nạn tham nhũng, dẫn tới những chia rẽ và bất đồng sâu sắc trong cả nội bộ hệ thống chính trị lẫn quan hệ dân-đảng. Bằng nhiều cách khác nhau, Trung quốc đã có trong tay những lá bài đủ nặng để làm suy yếu các quyết định cứng rắn từ giới lãnh đạo Việt Nam khi xảy ra đối đầu  bằng quân sự. Bẫy nợ và làn sóng đầu tư ồ ạt vào Việt Nam trong một thời gian dài cũng cho phép Trung Quốc thiết lập một hệ thống gián điệp lẫn lực lượng dự bị cứng có thể khai thác khá hùng hậu trong tình huống xấu nhất ngay trên đất liền mà Việt Nam không dễ dàng đối phó như thời điểm trước cuộc chiến biên giới phía bắc năm 1979.  Về tiềm lực kinh tế, Việt Nam đang trong giai đoạn phải chạy đua, vơ vét mọi nguồn lực để trả nợ căng thẳng nhất 2019-2022. Nhưng mới chỉ đi vào năm thứ nhất của cao trào thì nguy cơ vỡ nợ đã hiện rõ những bế tắc khó tránh khỏi. Hàng loạt những biến cố chính trị, kinh tế ập tới khiến nút thắt sinh tử của chế độ Việt Nam sớm hiện ra gần hơn so với dự tính của nhiều người trong giới quan sát lẫn lãnh đạo của chế độ đương quyền tại Việt Nam. Cuộc bán tháo các bất động sản năm 2017-2018 để trả nợ đã bộc lộ bài toán tiêu cực là ngay cả việc bán nguồn dự trữ là tài nguyên đất đai vốn đầy rẫy nguy hiểm cũng không đủ; tiếp tục mạo hiểm hơn qua bài toán dự luật đặc khu – một kế hoạch đánh cược sự tồn vong của đất nước, nhằm biến những lợi thế tự nhiên cuối cùng thành mỏ vàng bù đắp cho nợ nước ngoài năm 2018 cũng thất bại. Mặc dù bị phản đối dữ dội, dự luật đặc khu tuy không được chính thức thông qua nhưng các dự án tại các  vị trí dự kiến làm đặc khu vẫn được tiến hành. Kèm theo đó là những dự án hàng chục tỷ dolar trong chiến lược “vành đai con đường” được thúc đẩy, cho thấy mục đích của các dự án này không có gì khác ngoài tranh thủ nguồn vốn của các dự án này để chi trả các khoản nợ nước ngoài đã lên tới vài chục tỷ dolar mỗi năm.  Không chỉ trả nợ nước ngoài, áp lực nguồn thu để nuôi bộ máy hành chính khổng lồ bậc nhất thế giới khiến chế độ buộc phải bất chấp rủi ro kìm hãm kinh tế, tăng giá liên tục các mặt hàng chiến lược xăng dầu; điện và các loại thuế phí mới hinh thành để bù đắp, dẫn đến các mâu thuẫn nội tại càng tăng cao, khiến uy tín của đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục đổ vỡ ngay ở những thành phần trung kiên nhất. Nói cách khác: Nút thắt sinh tử của thế chế chính trị Việt Nam đã hiện rõ ngay chính từ vụ lấn chiếm Bãi Tư Chính của Trung Quốc, khả năng trì hoãn không thể xa hơn năm 2020. Trong thời điểm này, nếu xảy ra tình huống chiến tranh Trung-Việt liên quan tranh chấp biển Đông thì nó là cuộc chiến không chỉ mang ý nghĩa là cuộc chiến giữa một cường quốc, một nước lớn với một nước nhỏ mà là cuộc chiến giữa một thể chế chính trị đang đang cần tìm giải pháp ổn định nội bộ qua hành động quân sự với một thể chế chính trị đang vào thời điểm yếu nhất, cần sự tránh né, nhượng bộ tối đa để níu giữ quyền lực. Giữa một đội quân khổng lồ cần được cọ sát, thể hiện sức mạnh thực chiến nhằm tranh đoạt lá bài trong cuộc đua với thế giới và một đội quân thua xa về tiềm lực đang bất lợi cả về yếu tố chiến lược và chiến thuật. Chính quyền của đảng cộng sản Việt Nam dù muốn hay không cũng chỉ có một lựa chọn duy nhất để tồn tại: Chấp nhận đối đầu cuộc chiến với Trung Quốc để lấy lại lòng dân và nhận được sự hậu thuẫn từ các cường quốc đủ mạnh để chiến thắng.    
......

Vì sao Bộ Công an ‘đề nghị Chủ tịch Hà Nội phối hợp, cung cấp thông tin liên quan Nhật Cường’?

Bùi Quang Huy (trái) và Nguyễn Đức Chung Thường Sơn (VNTB)| Nguyễn Đức Chung đang phải đối mặt với muôn vàn hiểm trở từ chính các đồng chí không đồng phe. Sau hơn hai tháng từ thời điểm thông báo là đã khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam, lệnh khám xét đối với ông Bùi Quang Huy và 8 người khác vì tội “Buôn lậu và tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” - được hiểu rõ ràng là Huy đã phải tra tay vào còng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã có một động thái ‘lạ’: gửi văn bản cho Chủ tịch UBND TP.Hà Nội Nguyễn Đức Chung đề nghị phối hợp, đôn đốc chỉ đạo cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ điều tra vụ án. Theo đó, trong quá trình điều tra vụ án buôn lậu, vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng và rửa tiền xảy ra tại Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Nhật Cường (Nhật Cường), Công ty TNHH giải pháp phần mềm Nhật Cường (Nhật Cường Software), Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã phát hiện ra nhiều tình tiết lắt léo, như: Công ty Nhật Cường sử dụng các khoản tiền từ buôn lậu để phục vụ cho hoạt động của Nhật Cường Software…   Trong bối cảnh Bùi Quang Huy vẫn biệt tích chứ không phải đã bị bắt như thông  báo của Bộ Công an, văn bản đề nghị trên của Cơ quan Cảnh sát điều tra cho thấy tiến trình điều tra vụ Nhật Cường và những quan chức bảo kê cho doanh nghiệp này dường như không mấy thuận lợi, hoặc đã vấp phải một lực cản lớn từ ngay trong nội bộ đảng. Bởi nếu không gặp khó khăn, quá trình điều tra trong hơn 2 tháng qua của Cơ quan Cảnh sát điều tra đã phải có được một số manh mối về việc hai công ty Nhật Cường và Nhật Cường Software đã sử dụng những nguồn tiền bất hợp pháp có nguồn gốc từ đâu và vào những phi vụ gì.   Đến thời điểm hiện nay, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố 10 bị can về các tội danh buôn lậu theo điều 188 bộ luật Hình sự năm 2015 và tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo điều 221 bộ luật Hình sự năm 2015.   Riêng bị can Bùi Quang Huy (Tổng giám đốc Nhật Cường, hiện đang bị truy nã) bị khởi tố về cả 3 tội danh: Buôn lậu theo khoản 4 điều 188 và vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 3 điều 221 bộ luật Hình sự năm 2015 và rửa tiền theo khoản 3 điều 324 bộ luật Hình sự.   Hàng loạt đồn đoán và ám chỉ trong dư luận, trên mạng xã hội và trên mặt báo quốc doanh từ trước khi Hội nghị trung ương 10 diễn ra vào trung tuần tháng 5 năm 2019 về sân sau Bùi Quang Huy của Chung ‘Con’, tức Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung, giờ đây trở nên phức tạp hơn hẳn bởi sự biến mất của Huy.   Trong khi đó, Bộ Công an lại phải nhận một vết đen nhơ nhớp bởi cách thông tin cái sau đá cái trước của về vụ Bùi Quang Huy. Bởi vào ngày 14/5/2019, chính Bộ Công an thông báo là đã khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam, lệnh khám xét đối với ông Bùi Quang Huy và 8 người khác vì tội “Buôn lậu và tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” - được hiểu rõ ràng là Huy đã phải tra tay vào còng. Nhưng đến ngày 19/5/2019, cũng Bộ Công an lại thông báo Bùi Quang Huy đã bỏ trốn từ ngày 9/5.   Vụ Bùi Quang Huy đào thoát ngay trước mũi công an khi vụ việc đã được đưa vào ‘tầm ngắm’ - mà bằng chứng rõ nhất là vụ khám xét cơ sở doanh nghiệp Nhật Cường - phải được ‘giải thích’ như thế nào để đầu xuôi đuôi lọt? Vụ khám xét cơ sở Nhật Cường có phải là động tác đánh động cho Bùi Quang Huy bỏ trốn? Các cơ quan an ninh điều tra, cảnh sát điều tra và quản lý xuất nhập cảnh của Bộ Công an đã ‘làm ăn’ đến nông nỗi nào mà khiến lại phát sinh thêm một Bùi Quang Huy đến mức phải ‘truy nã quốc tế’, sau những tiền lệ đậm màu sắc ‘phe cánh chính trị’ như Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đình Duy, Lê Chung Dũng, Phan Văn Anh Vũ?   Rốt cuộc, kẻ nào đã mật báo cho Bùi Quang Huy để ông chủ Nhật Cường Mobile bỏ trốn ngay trước mũi Bộ Công an, Nguyễn Xuân Phúc và cả ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng?   Văn bản đề nghị cung cấp thông tin của Cơ quan Cảnh sát điều tra gửi trực tiếp Chủ tịch UBND TP.Hà Nội Nguyễn Đức Chung còn có thể được hiểu theo một nghĩa khác: đó là lời cảnh báo đối với Chung ‘Con’ và yêu sách đòi quan chức cựu công an này không được bất hợp tác.   Nguyễn Đức Chung - người được đồn đoán sôi nổi về khả năng sẽ lọt vào vòng đua cho Bộ Chính trị khóa 13 (năm 2021), và có thể được ngồi vào ghế bộ trưởng công an, giờ đây đang phải đối mặt với muôn vàn hiểm trở từ chính các đồng chí không đồng phe.   
......

Trận Waterloo của hoàng đế Tập? – Bước leo thang nguy hiểm ở Tư Chính

Tân Phong| Phần 1: Bước leo thang nguy hiểm ở Tư Chính Hành động xâm phạm chủ quyền trắng trợn của Bắc Kinh ở bãi Tư Chính thuộc vùng lãnh hải và đặc quyền kinh tế Việt Nam cùng với việc triển khai lực lượng viễn chinh ở quân cảng Sihanoukville của Cambodia cho thấy Trung Quốc đang ngày một dấn sâu hơn những nước cờ nguy hiểm cho an ninh và tự do hàng hải trong khu vực nhằm nỗ lực thay đổi cục diện địa chính trị, quân sự tại Biển Đông bằng các hoạt động khai thác dầu khí kết hợp với sức mạnh áp chế về quân sự. Xung đột ở bãi Tư Chính thuộc Việt Nam sẽ không dừng lại. Địa chiến lược của khu vực này có vai trò then chốt trong tham vọng “đường 9 đoạn” của Trung Quốc. Thời điểm vàng cho một cuộc xung đột hạn chế với Việt Nam tiến tới ép Hà Nội phải chấp thuận một thỏa thuận “hợp tác chung” tại địa điểm này chính là thời gian chính quyền Donald Trump bận rộn cho mùa bầu cử tiếp theo, khi chảo lửa Iran đang chực sôi trào, cũng như vấn đề Triều Tiên chưa ngã ngũ với nhiều toan tính. Nếu khả năng này xảy ra, thì tương lai Biển Đông trở thành vùng “nội thủy” của Trung Quốc sẽ diễn ra trong vài năm tới. Điều này là một thảm họa cho không riêng gì Việt Nam mà tất cả các nước đang chia sẻ lợi ích chung tại Biển Đông sẽ đều chịu rủi ro. Tháng Bảy, 2016, phán quyết của tòa quốc tế PCA phủ nhận những yêu sách không thể chấp nhận và vô căn cứ của Trung Quốc về “đường 9 đoạn”. Nhưng trên thực tế, kể từ sau phán quyết PCA, Trung Quốc đã liên tục đẩy mạnh tiến trình quân sự hóa Biển Đông, gia tăng các hoạt động “xói mòn chủ quyền” của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á một cách hệ thống và liên tục. Sự nhu nhược và toan tính thiển cận của Hà Nội và Manila trong thời gian dài, cũng như lòng tham vô hạn của Hunsen đã trao cho Trung Quốc rất nhiều cơ hội để dễ dàng chia rẽ một cộng đồng các nước ASEAN thiếu đoàn kết, ngày một củng cố sức mạnh quân sự tại vùng biển chiến lược, bận rộn nhất thế giới. Trên bàn cờ Biển Đông, Trung Quốc đang nắm thế chủ động và lợi thế “đi trước” so với “tứ giác kim cương” Mỹ – Nhật – Úc – Ấn. 8 năm cầm quyền của Tổng Thống Obama, với sự “rụt rè” đáng ngạc nhiên của người Mỹ ở Biển Đông, thời gian đã đủ cho Trung Quốc hiện đại hóa hạm đội, xây dựng chuỗi đảo nhân tạo – là những vùng đảo chiếm được của Việt Nam vào năm 1974, 1988 ở Hoàng Sa, Trường Sa, xâm chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines 2012, hình thành một hiện trạng cực kỳ bất lợi cho chủ quyền các quốc gia có vùng lãnh hải chồng lấp với yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc. Có rất nhiều điểm tương đồng giữa những gì đang xảy ra ở Tư Chính, Việt Nam với cuộc xâm lược Ba Lan của Hitler 80 năm trước. Vào 1 tháng Chín, 1939 quân đội Đức Quốc Xã nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược Ba Lan. Các cấu trúc phòng thủ của Ba Lan đã nhanh chóng tan vỡ vì tương quan lực lượng, trình độ kỹ thuật quân sự, vũ khí, chiến thuật quá chênh lệch, bị tấn công cùng lúc bởi cả hai lực lượng hùng mạnh là Đức Quốc Xã và hồng quân Liên Xô – thời gian đầu của Thế Chiến Thứ Hai, Liên Xô và Đức Quốc Xã còn là đồng minh của nhau. Một lý do khác nữa khiến lực lượng hơn 1 triệu quân Ba Lan sụp đổ nhanh chóng trong vòng 3 tuần lễ là phản ứng chậm chạp của quân đồng minh đã không kịp thời tiếp viện cho Ba Lan vì những toan tính chính trị thiển cận. Sự sụp đổ nhanh chóng của “đại bàng trắng Châu Âu” khiến cho vùng đất chiến lược Trung Âu lọt vào tay Hitler để làm bàn đạp thuận lợi cho các cuộc xâm lược toàn Châu Âu sau đó dễ dàng. Dường như lịch sử đang lặp lại. Nếu coi Biển Đông là một vùng đồng bằng rộng lớn thì địa chiến lược khu vực này có vai trò quan yếu hơn nhiều so với Ba Lan đối với Châu Âu. Trong tương lai không xa, khi con kênh đào Kra xuyên qua miền Nam Thái Lan được các tập đoàn Trung Quốc hoàn thành, Bắc Kinh sẽ vẽ lại bản đồ địa kinh tế chính trị toàn bộ Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Khi đó, các lực lượng hải không quân của Trung Quốc đồn trú tại Cambodia, Tư Chính, Trường Sa, Hoàng Sa sẽ kiểm soát những hải trình giá trị nhất thế giới. Đó là một viễn tượng đen tối mà không ai muốn chứng kiến. Hoạt động khảo sát dầu khí tại khu vực bãi Tư Chính, Việt Nam của nhóm tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8 cùng với đội tàu hùng hậu bảo vệ gồm các tàu hải cảnh 12.000 tấn mã hiệu 3901, tàu dân quân biển Qiong Sansah Yu0014, Haijing 37111, Haijing và Zhonguo Haijing 46303, tàu hải giám 3402…, ngay trong thời gian chuyến đi thăm Trung Quốc kéo dài 4 ngày của bà Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân là một toan tính “nhất tiễn hạ song điêu” thâm hiểm của Bắc Kinh. Cần nhắc lại chuyến đi của bà Nguyễn Thị Kim Ngân từ ngày 8 đến 12 tháng Bảy, 2019 là thay mặt cho ông Nguyễn Phú Trọng vì lý do sức khỏe đã không đi “chầu thiên triều” để báo cáo về kế hoạch đại hội đảng và nhân sự chủ chốt nhiệm kỳ tiếp tới. Việc tái lập lại tình trạng xung đột căng thẳng ở bãi Tư Chính sau khi đã ép Việt Nam hủy bỏ liên doanh với Repsol ở dự án khai thác dầu khí Cá Rồng Đỏ năm 2017 tại thời điểm này có một chủ ý rõ ràng. Thông điệp mà Bắc Kinh muốn gửi đến người Mỹ từ “phép thử” Tư Chính lần này là Việt Nam đã hoàn toàn chấp thuận “bàn giao” hay đồng ý “hợp tác” với Trung Cộng tại các vùng biển trọng yếu, giàu tài nguyên của mình. Tuy nhiên, diễn biến ở Tư Chính đã không diễn ra đúng như “kế hoạch”. Phản ứng khá mạnh mẽ của cảnh sát biển và hải quân vùng 2, Việt Nam có lẽ làm cho Trung Quốc bất ngờ. Mặc dù vậy, điều khó hiểu ở đây là “dàn hợp xướng” hơn 800 tờ báo chí trong nước dưới cái đũa chỉ huy của Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Võ Văn Thưởng và Bộ Trưởng Bộ 4T Nguyễn Mạnh Hùng đã “câm như hến” suốt 18 ngày kể từ động thái quân sự đầu tiên của Trung Quốc bắn thử nghiệm 6 tên lửa ASMB đối hạm loại mới vào hai khu vực riêng rẽ ở vùng biển Trường Sa và 11 ngày sau khi tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8 cùng đội tàu bảo vệ tiến vào bãi Tư Chính. Tất cả lãnh đạo cao cấp CSVN đều không hề đả động đến hai chữ húy kỵ “Tư Chính”, ngay cả khi tin tức trên các tờ báo nước ngoài và mạng xã hội đã phổ biến rộng rãi. Sự xuất hiện “đôi tháng một lần” của ông Tổng Tịch Nguyễn Phú Trọng trong thời điểm này lại là cuộc gặp mặt các cán bộ công đoàn cơ sở với lo ngại trước “thông tin xuyên tạc” của những “thế lực thù địch”. Có vẻ như, điều ông ta lo ngại là những cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc năm 2014 có thể lặp lại chứ không phải là chủ quyền quốc gia bị xâm phạm. Một nguồn tin nội bộ cho biết, lần này, một bộ phận từ phía quân đội và giới chức lãnh đạo phía Nam đã không đồng quan điểm với những chóp bu CSVN và sự việc không diễn ra như Hà Nội mong muốn. Ngày 17 tháng Bảy, 2019, báo “lề phải” của Việt Nam mới lên tiếng chỉ đích danh Trung Quốc là kẻ xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam. Đây cũng là lần hiếm hoi, báo chí trong nước đã được “tháo rọ mõm” khi có loạt bài phản đối hành động “yêu cho roi cho vọt” của người bạn “16 chữ vàng” của Đảng CSVN. Mặc dù, việc quốc tế hóa những xâm phạm chủ quyền trắng trợn của Trung Quốc tại lãnh hải Việt Nam là biện pháp tự vệ tốt nhất, nhưng xem ra Hà Nội không muốn làm điều này. Trong các cuộc xung đột về lãnh thổ từ sau 1988, Việt Nam luôn là kẻ thua cuộc và chấp nhận thiệt thòi. Một cụm từ luôn được Bắc Kinh nhắc nhở những “đứa con hoang đàng” là phải “hướng tới tương lai”, “giữ gìn đại cục”. “Đại cục” ở đây không chỉ hàm nghĩa là hòa bình và lợi lộc cho những chóp bu và Đảng CSVN. Đó còn là “tính chính danh” của thể chế – những thỏa thuận bí mật mà lãnh đạo hai đảng cộng sản thỏa thuận với nhau trong quá khứ để đánh đổi lấy lợi quyền cho đảng phái nhưng phương hại quyền lợi và chủ quyền quốc gia nếu bị Bắc Kinh công bố thì sẽ là dấu chấm hết cho Đảng CSVN. Xem ra, những động thái truyền thông và đấu tranh ngoại giao yếu ớt, muộn màng của Hà Nội chẳng có tác dụng gì đáng kể để ngăn cản một cuộc xâm lược đã được chuẩn bị chu đáo. Tư Chính sẽ là một Gạc Ma thứ 2 nhưng “êm ái” hơn và cái giá phải trả sẽ đau đớn hơn rất nhiều. 25/7/2019 Tân Phong (còn tiếp) https://viettan.org/tran-waterloo-cua-hoang-de-tap-buoc-leo-thang-nguy-hiem-o-tu-chinh/  
......

Kinh tế Trung Cộng cạn hơi

Ngô Nhân Dụng -  Người Việt Năm 2007, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ 14,23% một năm và liên tiếp nhiều năm tiếp tục phát triển hơn 10%. Năm 2011, tỷ lệ tăng trưởng xuống 9,5%, dưới 10% nhưng vẫn ngoạn mục. Nhưng sau đó con tàu kinh tế bắt đầu giảm tốc, năm 2014 chỉ còn 7,3%, năm ngoái xuống 6,6%. Sau đó, mỗi ba tháng người ta lại thấy kinh tế Trung Quốc giảm tốc độ. Trong quý thứ nhì năm 2019, Tháng Tư đến Tháng Sáu, chỉ phát triển được 6,2%, tỷ lệ thấp nhất kể từ Tháng Ba, 1992, gần ba chục năm. Những con số chính thức chắc chắn không đúng sự thật. Giáo Sư Hướng Tùng Tộ (Xiàng Sōngzuò, 向松祚), Đại Học Nhân Dân, Bắc Kinh, từng làm cho Ngân Hàng Nông Nghiệp và Ngân Hàng Nhân Dân, cho biết một tài liệu phổ biến nội bộ ước lượng tỷ lệ tăng trưởng năm ngoái chỉ có 1,67% chứ không phải 6,6% như báo cáo chính thức (theo Cary Huang, South China Morning Post). Trong cả bức tranh tăm tối đó chỉ có một điểm sáng, là kinh doanh tư nhân vẫn mạnh hơn khu vực quốc doanh mặc dù bị các ngân hàng kỳ thị. Không phải chỉ giảm tốc độ, bộ máy kinh tế của Cộng Sản Trung Quốc đang dần dần cạn hơi. Trong Tháng Sáu vừa qua, cả nhập cảng lẫn xuất cảng của Trung Quốc đều xuống. Nhiều lãnh vực thực sự đang xuống, như khi các nhà máy đóng cửa để dọn cơ sở sản xuất qua các nước Đông Nam Á vì lương công nhân ở đó thấp hơn. Gần đây còn thêm lý do qua nước khác thì không bị Mỹ đánh thuế. Tại sao bộ máy kinh tế Trung Cộng chạy hết hơi? Kinh tế học có một định luật “Năng suất giảm dần” (the law of diminishing returns). Thí dụ, bà chủ một tiệm phở đặt thêm một cái bàn và thuê thêm một nhân viên thì một thời gian sau tiền lời có thể tăng lên. Đặt thêm một cái bàn và thuê một nhân viên nữa thì chắc tiền lời cũng tăng, nhưng số tăng không cao bằng lần đầu. Tăng lên ba, lên bốn, tỷ lệ tiền lời giảm xuống dần dần. Sẽ tới lúc lợi nhuận không thay đổi mà có thể xuống. Kinh tế Trung Quốc tăng vọt lên từ thời Đặng Tiểu Bình không có gì lạ; vì với chính sách tư bản hóa khiến có thêm bao nhiêu người đang ngồi ngáp ruồi hay nằm ngủ bỗng dưng đứng dậy, kiếm việc làm ăn. Trước kia họ có muốn cũng không được phép làm gì cả. Giới có tiền kinh doanh và cửa hàng, thêm cả tiền từ Đài Loan, Hong Kong và các nước khác đổ vào. Nông dân kéo ra thành phố làm công nhân các nhà máy mới. Trong suốt hai chục năm sau đó, kinh tế Trung Quốc vọt lên nhờ tiền vốn được khai thác (tư bản) tăng lên và số người làm việc tăng lên. Tăng vốn đầu tư, tăng số nhân lực, đó là hai yếu tố chính thúc đẩy tỷ lệ tăng trưởng từ số không lên trên 10%. Lợi tức theo đầu người hiện nay lên tới $14.000 một năm (hoặc $18.000 tính theo lối khác), có thể coi là “trung lưu.” Nhưng “Định luật năng suất giảm dần” thấy có hiệu lực từ năm 2011 đến giờ; tốc độ phát triển xuống dần dần. Tỷ lệ tăng trưởng thật ở Trung Quốc chắc chắn thấp hơn con số chính thức; khó cao hơn 4%, theo Giáo Sư Loren Brandt, đại học University of Toronto, chuyên gia nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Điều đáng nhớ là những quốc gia khác ở Á Đông cũng trải qua một thời kỳ “cất cánh,” phát triển nhanh, rồi giảm dần tốc độ như vậy. Kinh tế Đài Loan, Nam Hàn, và Nhật Bản sau chiến tranh, bắt đầu tăng trưởng với tốc độ cao trong mấy thập niên. Từ năm 1970 Nhật bắt đầu giảm tốc, đến giữa thập niên 1980 thì tới lượt Nam Hàn. Nhưng hiện tượng đáng chú ý là ba nước trên đã kéo dài thời kỳ tăng trưởng lâu hơn; khi so sánh với họ thì kinh tế Trung Quốc đã giảm tốc sớm hơn. Khi dân Đài Loan đạt được mức lợi tức theo đầu người (per-capita income) cỡ trung lưu, tương đương với dân Trung Quốc hiện nay, thì nền kinh tế vẫn chạy thêm 7,5% một năm. Đại Hàn Dân Quốc vẫn tăng thêm 6,3% một năm, và Nhật Bản 4,7%. Các nước Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn có một lợi thế mạnh hơn Trung Quốc nữa, là thời kỳ cất cánh của họ dựa trên tư nhân; những nhà kinh doanh này chỉ đầu tư khi thấy có lợi lâu dài. Trong khi đó Cộng Sản Trung Hoa dựa trên những cuộc đầu tư của nhà nước. Nhà nước muốn tỷ lệ phát triển cao thì đổ tiền vào các công trình xây cất nhà ở, làm đường, cầu, đường xe lửa, và các hạ tầng cơ sở khác. Nhưng đến một lúc nào đó, những con đường và cây cầu xây thêm không mang lại ích lợi kinh tế nào đáng kể, nhiều khu gia cư bỏ trống không người thuê. Đầu tư thêm mà năng suất không lên! Trở lại hai yếu tố giúp cho kinh tế Trung Quốc lên mấy chục năm qua: Tư bản lên, đầu tư nhiều hơn; và lực lượng lao động cũng tăng. Trong lục địa Trung Quốc hiện nay, số nhân dụng không thể gia tăng nữa. Trái lại, số người trong tuổi làm việc không tăng lên mà lại bắt đầu xuống. Số nông dân kéo ra thành phố không tăng lên nữa. Trung Quốc còn đang bị các nước trong vùng Đông Nam Á cạnh tranh thu hút mất vốn đầu tư và công việc làm. Trong các nền kinh tế bình thường, khi hai yếu tố sản xuất tư bản và lao động bắt đầu cạn thì làm cách nào tiếp tục phát triển? Các nước Âu Mỹ và Nhật Bản cho thấy kinh nghiệm của họ: Phải gia tăng năng suất lao động. Nếu số người làm việc vẫn như cũ nhưng người làm việc giỏi hơn trước, thì tổng số sản xuất vẫn tiếp tục tăng trưởng. Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn đã giữ được mức tăng trưởng cao sau khi đã đạt mức lợi tức trung lưu là vì họ gia tăng năng suất. Không có một chính phủ nào ra lệnh và đặt chỉ tiêu cho các xí nghiệp và công nhân phải tăng năng suất. Các nhà kinh doanh tự động muốn cải thiện, vì họ phải cạnh tranh ráo riết. Người lao động phải học hỏi những cách làm việc mới, sử dụng máy móc mới, cũng hoàn toàn vì lợi ích cho mình. Kinh tế Mỹ liên tục tăng trưởng trong hàng chục năm qua là nhờ kỹ thuật tin học giúp năng suất rất nhiều ngành lên cao. Lực lượng lao động được phân bố lai cho hợp lý: Tăng thêm số công nhân làm việc trong các ngành năng suất cao, các công nghệ tân tiến; đồng thời giảm bớt số người làm việc trong các ngành chậm lụt mà năng suất không thể tăng nhanh được, như kỹ nghệ may, dệt. Tính trung bình, năng suất lao động ở nước Mỹ lên nhanh hơn các nước khác. Ở Trung Quốc, đảng Cộng Sản làm ngược lại. Khi thấy kinh tế lên đến trình độ trung luu, thay vì thúc đẩy cho kinh tế tư doanh phát triển thì Chủ Tịch Tập Cận Bình và giới lãnh đạo đảng lại lo củng cố lãnh vực quốc doanh. Các xí nghiệp quốc doanh được ngân hàng ưu đãi khi vay nợ, trong khi giới tư doanh phải vay từ ngoài ngân hàng với lãi suất cao gấp nhiều lần. Trong Tháng Năm, 2019, tổng số tài sản các doanh nghiệp nhà nước của Trung Cộng đã tăng 8,8% so với năm ngoái, lên tới 192 ngàn tỷ đồng nguyên. Nếu Cộng Sản Trung Quốc muốn cưỡng lại, giảm bớt tác dụng của “Định luật năng suất giảm dần” thì họ phải làm gì? Phải để các doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh theo quy luật thị trường, phải cho kinh tế tu doanh tự do phát triển. Nhưng làm như vây tức là bỏ luôn các giáo điều Marx, Lenin và Mao Trạch Đông. Cho nên ông Tập Cận Bình không dám làm. Cứ theo chính sách cũ như thế thì bộ máy kinh tế nước Tàu không những cạn hơi dần dần mà còn đi tới chỗ bế tắc.    
......

Loại bỏ Trung Quốc khỏi các gói thầu để phản đối

Nguyen Ngoc Chu| Chừng nào Việt Nam còn bám vào tình đồng chí với Trung quốc, thì chừng đó ngư dân Việt Nam còn bị mất ngư trường và Việt Nam sẽ còn mất thêm biển đảo nữa. Tình đồng chí là chiếc áo khoác. Quyền lực không bằng quyền lợi Dân tộc. Người sáng suốt tự biết mà hành xử. LOẠI BỎ TRUNG QUỐC KHỎI CÁC GÓI THẦU ĐỂ PHẢN ĐỐI TRUNG QUỐC XÂM PHẠM VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM Chúng ta biết mục tiêu không khoan nhượng của Trung quốc Cộng sản là độc chiếm Biển Đông Nam Á. Chúng ta biết kế sách “ Nhảy vào đất người biến thành vùng tranh chấp”. Chúng ta không lạ mẹo “ Tằm ăn dâu”. Thế nhưng, tại sao chúng ta biết ý đồ và sách lược của Trung quốc Cộng sản mà vẫn không ngăn chặn được? Ấy là bởi vì chúng ta níu kéo đồng ý thức hệ viển vông. Ấy là vì chúng ta chưa giải phóng nội lực. Ấy là vì chúng ta chưa dứt khoát trong tìm kiếm sức mạnh quốc tế. I. SỰ BẤT LỢI TRONG CHUYẾN ĐI TRUNG QUỐC CỦA ÔNG VÕ VĂN THƯỞNG Tàu Trung quốc ngang nhiên thăm dò địa chất ở bãi Tư chính của Việt Nam đã nhiều ngày mà Việt Nam không có cách nào để đuổi đi được. Trung quốc thích thì đến. Trung quốc thích thì đi. Đã thế, Việt Nam lại còn nhẫn nhịn cam chịu khi vẫn cứ cử các đoàn ngoại giao sang thăm Trung quốc nhằm giữ đại cục. Chuyến thăm của bà Ngân đã không có tác dụng gì, thiết nghĩ phải rút ngay bài học. Nhưng không. Ông Thưởng vẫn tiếp tục sang Trung quốc. Ngoài “Lấy đại cục làm trọng”, chắc là Việt Nam thực hiện kế sách “ Còn nước còn tát”. Phải sòng phẳng rằng, không có gì mà phải hợp tác, học hỏi về lý luận với ĐCS Trung quốc cả. Chưa nói đến lỗi thời, thì khái niệm ĐCS thời Marx – Lenin không có gì chung với ĐCS Trung quốc bây giờ, ngoại trừ sự toàn trị. Và Trung quốc bây giờ cũng không có gì chung với phạm trù XHCN của Marx và Lenin. Trung quốc hiện nay là một con quái vật đầu cộng sản, bụng phong kiến, chân kinh tế thị trường. Thiết nghĩ, mục đích chuyến công du của ông Thưởng là quan hệ đại cục đã được sắp đặt từ trước, nhân đó mà đề nghị Trung quốc không xâm phạm bãi Tư Chính - mới là mục đích thứ hai. Nhưng tiếc thay, cũng như trường hợp lời đề nghị của bà Ngân, Trung quốc bỏ ngoài tai lời đề nghị của ông Thưởng. Dù cho có dự định tốt đẹp, thì cuối cùng chuyến đi của ông Thưởng đã không cứu vãn được tình thế, lại hạ thấp Việt Nam sâu hơn ở thế nhẫn nhịn cầu hòa. Buồn và nguy hơn là đã mang đến cho Trung quốc một tự tin hành động. Trung quốc biết rằng Việt Nam không thể rời bỏ được Trung quốc cho dù Trung quốc có lấn chiếm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam ở mức độ nào, miễn là không quá ồ ạt và không xảy ra chiến tranh. Bắc Kinh nhìn rất rõ hai yếu huyệt của Hà Nội. Thứ nhất là tránh đối đầu xung đột vũ trang nên nhẫn nhịn. Thứ hai là rời bỏ Trung quốc thì lo sợ sẽ dẫn đến nguy cơ lung lay chế độ. Điều đó lý giải tại sao kế sách “ Tằm ăn dâu” của Bắc Kinh sẽ thành công trong lấn chiếm thêm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Sách lược của Bắc Kinh đối với Hà Nội rất rõ ràng: “ Lấn chiếm. Dừng xoa dịu. Lấn chiếm. Dừng xoa dịu… và cứ tiếp tục tiến”. Điều mà Bắc Kinh đã làm và sẽ làm, là lấn chiếm từ từ, không ồ ạt, để đối phương không quá phẫn uất đến nỗi phải bỏ hẳn sang bên khác. Còn nữa, Bắc Kinh đã làm và sẽ làm, là chèn ép nhiều nhất có thể, không nổ súng, cùng lắm nổ súng lẻ tẻ, nhưng không đến mức nổ súng lớn. Đối chọi kẻ thù ngàn năm mà để chúng nhìn thấy trước phản ứng của mình thì đó là tai họa. II. 5 PHƯƠNG TIỆN NGĂN CHẶN TRUNG QUỐC XÂM PHẠM VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ VIỆT NAM Từ những điều trên, muốn ngăn chặn sự ngông cuồng “thích đến thì đến, thích đi thì đi” của Trung quốc thì phía Việt Nam phải chủ động biến hóa hành vi của mình, buộc Trung quốc phải thay đổi cách đối phó. Trong số nhiều biện pháp thì 5 điều sau đây cần áp dụng trước để ngăn chặn sự ngông cuồng của Trung quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. 1. VỀ MẶT PHÁP LÝ, PHẢI KIỆN TRUNG QUỐC RA TÒA ÁN QUỐC TẾ Chứa đựng 5 điểm lợi lớn sau đây. Một là, để khẳng định tính chính nghĩa của Việt Nam và tính côn đồ xâm lược của Trung quốc. Hai là, để cộng đồng quốc tế thấy rõ sự ngang ngược của Trung quốc mà đồng lòng ủng hộ Việt Nam ngăn chặn sự lộng hành của Trung quốc. Ba là, dể nhân dân Việt Nam và lãnh đạo Việt Nam thấy rõ tính chính nghĩa theo luật pháp quốc tế, thấy sự ủng hộ quốc tế, mà quyết tâm đấu tranh chống Trung quốc xâm lược. Bốn là, để nhân dân Trung quốc thấy rõ sự ngang ngược chà đạp luật pháp quốc tế của chính quyền cộng sản Bắc Kinh, mà không hậu thuẫn cho các hành động phi nghĩa của chính quyền cộng sản Bắc Kinh. Năm là, để cho những người Trung quốc bị chính quyền cộng sản Bắc Kinh đẩy đi xâm lược nhận thức ra lẽ phải, rồi run sợ trước hành động phi nghĩa của mình. Đừng nghĩ rằng Trung quốc dễ dàng sổ toẹt lên phán quyết của Tòa án Quốc tế. Thế giới này không chỉ mình Trung quốc. Trung quốc không thể sống một mình khi bất cần thế giới còn lại. Nếu Trung quốc sống một mình không cần thế giới còn lại, thì thế giới còn lại tồn tại mà không cần đến Trung quốc. Chuyện kiện ra Tòa án là việc bình thường trong quan hệ quốc tế. Các nước Mỹ và Liên minh châu Âu tuy là đồng minh, nhưng vẫn thường xuyên kiện nhau ra Tòa án Quốc tế. Đừng sợ rằng Trung quốc sẽ làm căng. Chính sự đớn hèn mới tạo nên lợi thế cho Trung quốc. Nếu không can đảm thì chủ quyền biển đảo sẽ tiếp tục mất. 2. PHẢN ỨNG LOẠI BỎ KHỎI CÁC GÓI THẦU CAO TỐC BẮC - NAM Loại bỏ Trung quốc ở tất cả các gói thầu cao tốc Bắc - Nam. Và tuyên bố không cho Trung quốc tham gia các gói thầu sắp tới vì xâm lược vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Sự tham gia của Trung quốc vào thị trường Việt Nam phụ thuộc vào hành vi của Trung quốc ngoài biển đảo. Đừng sợ Trung quốc sẽ cắt nguồn vay tài chính. Trung quốc sẽ bị thiệt hại nhiều hơn khi dừng hợp tác toàn diện với Việt Nam. Thách đố Trung quốc cũng không dám bỏ mất hoàn toàn thị trường và đối tác Việt Nam. 3. KÊU GỌI SỰ ỦNG HỘ CỦA CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ Trước hết là sự hiển diện của lực lượng tuần tra và hải quân Mỹ. Tiếp đến là lực lượng tuần tra và hải quân các nước khác. Sự ngang ngược của Trung quốc chỉ có thể giảm bớt khi sự hợp tác của Việt Nam với Mỹ gia tăng. Đây là điều không bàn cãi. 4. GẤP RÚT TĂNG CƯỜNG SỨC MẠNH LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT BIỂN VÀ HẢI QUÂN VIỆT NAM Đây là nhân tố quyết định. Mà bàn về nó không chỉ trong mấy trang và không chỉ một lần. 5. TÌNH ĐỒNG CHÍ LÀ CHIÉC ÁO KHOÁC Việt Nam phải thông báo cho Trung quốc rõ ràng, rằng quyền lợi Dân tộc là tối thượng; Tình đồng chí chỉ là cái áo khoác; Vất bỏ nó lúc nào cũng sẵn sàng. Có được thông điệp rõ ràng như thế tức là đã vứt bỏ yếu huyệt thứ 2 - buộc Trung quốc phải hành xử khác. Chừng nào Việt Nam còn bám vào tình đồng chí với Trung quốc, thì chừng đó ngư dân Việt Nam còn bị mất ngư trường và Việt Nam sẽ còn mất thêm biển đảo nữa. LỜI NHẮN 1. Lịch sử Trung quốc cho thấy những bộ tộc nhỏ hàng trăm năm thay nhau đô hộ Trung quốc. Đó là người Hung nô, người Kim, người Liêu, người Mông cổ, người Mãn thanh, người Nhật bản. Việt nam đã đối mặt với sự xâm lược của Trung quốc cả ngàn năm. Lần nào Trung quốc cũng chuốc lấy thất bại. Trung quốc là kẻ “mềm nắn rắn buông”. Với Trung quốc phải sòng phẳng đối mặt. Van xin chỉ chuốc lấy kiếp nô lệ. 2. Không có tranh chấp, không có bất đồng, chỉ có Trung quốc xâm chiếm biển đảo và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Đây là điều quán triệt xuyên suốt trong nội dung và ngôn từ khi đề cập đến sự xâm lược của Trung quốc trên biển của Việt Nam. Không được nhầm lẫn trong cách dùng từ ở đây. 3. Có được sự đồng lòng của cả trăm triệu dân thì không việc gì phải sợ Cộng sản Bắc Kinh. Hãy vứt bỏ chiếc áo khoác “đồng chí Bắc Kinh” để có được sự đồng lòng của toàn dân. 4. Không biết mắc tội còn không tha thứ. Huống chi biết vẫn cố tình mắc tội thì kiếp họa không chỉ một đời mà còn liên lụy đến muôn đời con cháu. 5. Tình đồng chí là chiếc áo khoác. Quyền lực không bằng quyền lợi Dân tộc. Người sáng suốt tự biết mà hành xử.  
......

Dân Biểu Chris Hayes phát biểu trước Quốc Hội Úc: Chính phủ Úc có bổn phận bảo vệ ông Châu Văn Khảm

Dân Biểu Chris Hayes| DÂN BIỂU ÚC CHRIS HAYES: VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA GIAM GIỮ TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ NHIỀU NHẤT TRONG KHU VỰC. CHÍNH PHỦ ÚC CÓ BỔN PHẬN BẢO VỆ ÔNG CHÂU VĂN KHẢM Trước Quốc Hội Liên Bang Úc, hôm 23 tháng Bảy, 2019, Dân Biểu Úc ông Chris Hayes đã mạnh mẽ lên án nhà cầm quyền CSVN gia tăng các hoạt động trấn áp các nhà bất đồng chính kiến, trong đó có ông Châu Văn Khảm, đảng viên Đảng Việt Tân. Ông yêu cầu chính phủ Úc phải có bổn phận bảo vệ và đòi hỏi nhà nước Việt Nam phải trả tự do ngay tức khắc cho ông Châu Văn Khảm. Sau đây là toàn văn bài phát biểu trước Quốc Hội của ông: DÂN BIỂU LIÊN BANG CHRIS HAYES: Tôi xin lưu ý Quốc Hội về trường hợp ông Châu Văn Khảm, một người Úc tranh đấu cho dân chủ hiện đang bị giam giữ tại Việt Nam. Kể từ khi bị bắt vào ngày 15 tháng Giêng, ông Khảm đã bị nhà cầm quyền Việt Nam giam giữ đến nay mà không qua xét xử. Ông Khảm hiện đang bị điều tra về cáo buộc có hành vi chống đối Đảng Cộng Sản Việt Nam, bao gồm âm mưu lật đổ chính quyền. Việt Nam là quốc gia giam giữ những người hoạt động ôn hoà nhiều nhất trong vùng. Những quyền công dân căn bản như quyền tự do phát biểu, lập hội và tụ họp ôn hoà bị giới hạn trầm trọng. Đảng Cộng Sản kiểm soát hệ thống tòa án, đưa ra những bản án tù nặng nề cho những nhà hoạt động bị kết những bản án vi phạm an ninh quốc gia mơ hồ. Nước Úc cần làm tất cả những gì trong khả năng để bảo đảm công dân mình không trở thành nạn nhân của một nhà nước nổi tiếng về việc trừng phạt nặng nề cho những ai dám chỉ trích chế độ. Trường hợp của ông Khảm cần được giải quyết nhanh chóng và nước Úc phải đòi hỏi Việt Nam phải miễn xét xử và trả tự do vĩnh viễn cho ông Khảm. Ông Khảm là một gương mặt nổi bật trong cộng đồng người Việt hải ngoại qua việc ông quảng bá và bênh vực nhân quyền, dân chủ và công bằng xã hội. Trong nhiều năm qua ông Khảm đã nỗ lực phơi bày các hành động trấn áp quyền tự do phát biểu và những hoạt động ôn hoà bởi chính phủ Việt Nam. Cách đây 6 tháng, ông Khảm đi Việt Nam để tìm hiểu thực tế và đã không trở về. Kể từ khi bị bắt, ông Khảm chỉ được sự thăm viếng hàng tháng của lãnh sự quán Úc qua sự canh chừng của nhà nước, giới hạn quyền phát biểu tự do của ông. Trong suốt tiến trình điều tra ông đã bị từ chối quyền được có luật sư biện hộ. Cuộc điều tra đã bị triển hạn tới tháng Chín và có thể bị triển hạn thêm nữa. Nhiều phần là buổi xử án sẽ không công khai ,sẽ không công bằng vì các toà án ở Việt Nam hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước Cộng Sản. Tôi đã gặp bà Khảm và hai người con trai của ông bà, họ rất lo lắng về số phận của ông Khảm. Càng ngày họ càng quan ngại về sức khoẻ thể chất và tinh thần của ông. Gia đình ông Khảm và Cộng Đồng Người Việt tại Úc kêu gọi Chính Phủ Úc hãy đem người công dân Úc đã 70 tuổi này trở về nhà. Đây là một người đã đóng góp tốt đẹp cho xã hội chúng ta. Ông ta đã đến nước Úc này cách đây 30 năm. Chính phủ Úc có bổn phận bảo vệ công dân mình. Vì vậy, tôi yêu cầu chính phủ áp lực nhà cầm quyền Việt Nam nhanh chóng giải quyết trường hợp ông Khảm và đòi trả tự do không điều kiện cho ông Khảm. https://viettan.org/dan-bieu-chris-hayes-phat-bieu-truoc-quoc-hoi-uc-chinh-phu-uc-co-bon-phan-bao-ve-ong-chau-van-kham/
......

Con đường duy nhất để cứu Việt Nam

Nguyễn Đình Ấm|   Đành rằng, nhà cầm quyền nào cũng muốn nắm quyền mãi mãi nhưng nắm quyền để mất nước thì đảng Cộng Sản đắc tội với dân tộc. Từ 3/7/ 2019 Trung Quốc lại cho tàu thăm dò địa trấn đến khu vực bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ( VN) để khảo sát, quấy phá công việc sản xuất dầu, khí của VN, đúng dịp bà Nguyễn Thị Kim Ngân chủ tịch Quốc Hội đang vui vẻ ở Trung Quốc (TQ). Không thể tính nổi những hành vi xâm lược từng nấc một của TQ với VN. Từ việc ngang nhiên đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, phần lớn quần đảo Trường Sa đến việc xua đuổi các dự án của VN liên doanh với nước ngoài, đâm chìm tàu cá, dìm ngư dân xuống biển, cướp sản phẩm... Những cuộc xâm lăng mang tính khủng bố này của TQ cứ từng bước dấn vào sâu vùng đặc quyền kinh tế của VN biến thành các vùng tranh chấp với TQ... Bằng thủ đoạn “tằm ăn dâu” này biển của VN cứ hẹp dần và chẳng bao lâu nữa hoàn toàn thuộc TQ... Ngoài cưỡng chiếm biển Đông, TQ cũng dần triệt hạ nguồn sống của nước Việt bằng cách tự mình và xúi Lào, Camphuchia xây hàng chục đập thủy điện trên sông Mekong, sông Hồng dẫn đến đồng bằng sông Cửu Long hạn hán, xâm mặn, sạt lở, không còn phù sa, đồng bằng sông Hồng thiếu nước,hạn hán, ngày càng cằn cỗi. Ngoài mọi phá phách về kinh tế, môi trường, đầu độc sức khỏe, truy lùng đến cả con giun, cái kiến của VN, TQ còn tài trợ xúi dân Việt ở các vùng cao, biên giới phía bắc di cư tự do vào nam và các địa phương phá nốt số rừng còn lại và bỏ trống biên giới để dân TQ xâm canh, xâm cư sang VN... TQ đã, đang bao vây, tàn phá bốn mặt Việt Nam, cái thòng lọng ở cổ dân tộc VN đang thít dần! Đứng trước tình hình biển Đông, an nguy của dân tộc như thế nhưng xem ra lãnh đạo VN vẫn không có đối sách chiến lược nào để phá cái thòng lọng đang thít vào cổ nước Việt. Cứ mỗi khi TQ có hành vi xâm phạm quá đáng không thể dấu diếm thì nhà cầm quyền vẫn chỉ loanh quanh phản ứng mơ hồ: “Nước ngoài xâm phạm ...là không có giá trị...Đấu tranh bằng biện pháp hòa bình...Vừa hợp tác, vừa đáu tranh...”. Sự thật là VN cứ hòa bình nhưng TQ cứ lấn tới. Đặc biệt, kẻ bị xâm lược lại có chính sách “ba không” tự cô lập mình: “Không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của của bất kỳ nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự để chống nước khác”. Phải chăng, đây là nguyên tắc do Trung Quốc chỉ đạo? Bởi vì, từ 2.000 năm qua chỉ có TQ xâm lược VN trong khi nền kinh tế, tiềm lực quân sự của VN yếu hơn TQ rất nhiều, nếu một mình VN thì có thể chống lại được TQ? Sở dĩ thời phong kiến ông cha ta có thể một mình chống được TQ khi họ tràn vào nước ta do thời đó tham gia cuộc chiến chỉ có sức người, sức ngựa, xe thô sơ nên dù TQ có tiềm lực lớn nhưng không thể huy động lực lượng tác chiến cùng lúc vào VN đi trên những con đường mòn hiểm trở. Năm 1979 nền quốc phòng TQ còn lạc hậu mà chỉ cỡ nửa tháng đã chiếm, tàn phá phần lớn 6 tỉnh biên giới phía bắc. Ngày nay sau 40 năm tiềm lực quân sự TQ đã đứng thứ 3 thế giới với xe cơ giới, máy bay, tên lửa,thông tin liên lạc hiện đại thì sao? Năm 1974 TQ đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1984 đánh chiếm Gạc Ma, trên biển đông họ liên tục đánh giết ngư dân, quấy phá các dự án kinh tế của ta như “chỗ không người”. Hiện nay VN chỉ có hai thuận lợi nhỏ: Thế giới “phẳng”, tức hành động sai trái của quốc gia nào cũng bị thế giới quan sát và biển đông liên quan lợi ích của nhiều nước khác. TQ chưa ồ ạt đánh chiếm VN ngay một lần mà phải dùng biện pháp “tằm ăn dâu” là nhờ hai yếu tố này. Tuy nhiên, TQ không từ bỏ kế hoạch cưỡng chiếm toàn bộ biển Đông, nước Việt vì lợi ích chiến lược: Khống chế con đường hàng hải châu Á-Thái bình dương-Ấn Độ dương và nguồn dầu, khí, băng cháy khổng lồ ở biển Đông. Khi “sự đã rồi” VN đừng hòng ai giúp VN chống TQ vì nước nào cũng tính đến lợi ích của họ. Sau khi chiếm biển đông TQ chỉ thay VN quản lý việc đi lại của tàu bè quốc tế không có gì thay đổi và hãy xem Nga chiếm Creame của Ucraina, chiếm Osetia, Apkhazia của Gruzia...có ai làm gì? Hãy xem ngay trong khối Asean cùng chung vận mệnh biển Đông còn chia rẽ, hội nghị bộ trưởng quốc phòng ASEAN lần thứ 13 họp ở Bangkok ngày 11/7 vừa rồi có ai dám nhắc tên TQ quân sự hóa biển đông? Những lần TQ gây hấn với VN các nước bạn “chí cốt” Lào, Campuchia, Cu Ba, Triều Tiên có ai hé nói một câu? Đặc biệt vụ Hải Dương 981 năm 2014 Nga còn ủng hộ TQ. Vì vậy chỉ còn cách học theo các nước như Hàn, Đài, Philipine, Nhật... để có thể giữ được nước. Tuy nhiên, các nước hùng mạnh có thể ngăn chặn TQ đều là những nước dân chủ, văn minh, nhân dân không thể cho chính phủ của mình đem tài sản, xương máu con em họ đi bảo vệ một chế độ độc tài lạc hậu như VN. Vì vậy, nếu đảng CSVN muốn cứu nước, đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích của đảng thì trước hết phải kiên quyết kiện TQ ra tòa, huy động toàn lực ngăn chặn tàu thuyền TQ xâm phạm, khẩn trương dân chủ hóa đất nước để có thể biến VN thành nước văn minh, hùng cường được thế giới tôn trọng và đủ điều kiện được các quốc gia dân chủ hùng mạnh ủng hộ mới ngăn chặn được TQ. Khi là một thể chế dân chủ đảng CS sẽ phải cạnh tranh với các lực lượng chính trị khác tự thay đổi mình theo hướng tiến bộ, trong sạch, văn minh để nhân dân trao quyền quản lý đất nước chứ không được “cha truyền con nối” như 70 năm qua để nay thoái hóa, biến chất, tham nhũng ngập đầu... Đành rằng, nhà cầm quyền nào cũng muốn nắm quyền mãi mãi nhưng nắm quyền để mất nước thì đảng CS đắc tội với dân tộc. Ngoài con đường dân chủ hóa xã hội để xây dựng thành nước hùng cường, toàn dân đoàn kết với sự ủng hộ của thế giới văn minh VN không còn con đường nào khác để thoát khỏi sự thôn tính, xâm lược của TQ. Theo tôi, bây giờ đã quá muộn nhưng muộn còn hơn không.
......

5 rủi ro khi dùng mạng xã hội Việt Nam

Trịnh Hữu Long|   Năm nay sẽ có năm mạng xã hội Việt Nam ra đời, do doanh nghiệp tư nhân làm. Đó là tuyên bố của Bộ Thông tin – Truyền thông do ICT News đưa tin ngày 23/7/2019. Cùng ngày, mạng xã hội Gapo ra mắt (dù không lâu sau đã phải đóng cửa để xử lý sự cố kỹ thuật). Còn trước đó vài hôm thì trưởng ngành thông tin – truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng kêu gọi xây dựng mạng xã hội và công cụ tìm kiếm thay Facebook, Google với một “triết học khác”. Mọi thứ đều tạo ra cảm giác rằng thị trường mạng xã hội và công cụ tìm kiếm nội địa đang bắt đầu bùng nổ với sự hậu thuẫn lớn từ phía nhà nước. Trong khi lợi ích từ việc có thêm lựa chọn công nghệ là chưa rõ ràng thì những rủi ro sau đây hoặc là đã rõ như ban ngày, hoặc là rất tiềm tàng. 1. Phải khai báo thông tin cá nhân xác thực khi đăng ký Cơ hội ẩn danh trên mạng đã hết? Ảnh: Báo Gia Đình Mới. Một trong những đặc điểm làm nên sức hấp dẫn và sức mạnh của Internet là tính “ẩn danh” (anonymity). Nó cho phép người dùng xây dựng một danh tính riêng của mình trên mạng và không sợ bị phán xét hay truy cứu trách nhiệm. Điều này đặc biệt có lợi cho người dùng và có hại cho chính quyền ở các nước độc tài như Việt Nam. Nhưng với mạng xã hội Việt Nam, tính ẩn danh sẽ không còn tồn tại nữa. Luật An ninh mạng 2018 yêu cầu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phải “xác thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản số” (Điều 26.1.a). Nghị định 72/2013/NĐ-CP, hiện vẫn còn hiệu lực, cũng cho phép Bộ Thông tin – Truyền thông ban hành quy định về việc “xác thực thông tin cá nhân [người dùng] với cơ sở dữ liệu điện tử về chứng minh nhân dân của Bộ Công an”. Làm thế nào doanh nghiệp có thể xác thực được thông tin người dùng? Có mấy cách: yêu cầu khai báo tên thật và số chứng minh thư nhân dân/thẻ căn cước/hộ chiếu, yêu cầu đăng ký bằng số điện thoại (vốn trên lý thuyết phải khai báo thông tin cá nhân khi mua sim). Một cách để xác thực khá hiệu quả mà website đặt phòng AirBnB làm là yêu cầu người dùng cung cấp hình chụp giấy tờ tuỳ thân và chụp hình selfie tại chỗ bằng ứng dụng của họ để đối chiếu với hình trên giấy tờ tuỳ thân. Tuy nhiên, người ta dùng AirBnB để thuê nhà, cho thuê nhà, chứ không phải để… phát biểu ý kiến, chia sẻ thông tin. 2. Thông tin cá nhân có thể bị chính quyền tra cứu bất cứ lúc nào Dữ liệu người dùng của các mạng xã hội Việt Nam nằm trong tầm kiểm soát của công an. Ảnh: Website Công an Hà Nội. Thông tin cá nhân người dùng khai báo nằm trong cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp đó phải cung cấp dữ liệu người dùng cho chính quyền bất cứ lúc nào bị yêu cầu. Vẫn được quy định tại điều 26.1.a của Luật An ninh mạng kể trên, doanh nghiệp phải “cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng”. Thông tin người dùng ở đây có thể gồm rất nhiều thứ, không chỉ là thông tin trên giấy tờ tuỳ thân. Hồi tháng 10 năm ngoái, Bộ Công an có dự thảo một nghị định hướng dẫn Luật An ninh mạng. Tuy dự thảo nghị định này hiện đã biến mất, nhưng cách Bộ Công an tư duy về khái niệm “thông tin người dùng”, “dữ liệu cá nhân” thì rất rõ, cụ thể tại Điều 2, Khoản 2: “Dữ liệu cá nhân là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự để xác định chính xác danh tính một cá nhân, bao gồm: Dữ liệu về thông tin cá nhân: họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, quốc tịch, nghề nghiệp, chức danh, nơi cư trú, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh nhân dân, mã số định danh cá nhân, số căn cước công dân, số hộ chiếu, số thẻ bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng, tình trạng sức khoẻ, hồ sơ y tế, hồ sơ tài chính, sở thích, sở trường, quan điểm chính trị, nguồn gốc dân tộc, chủng tộc, niềm tin triết lý, vị trí trong xã hội, sinh trắc học; Dữ liệu do cá nhân tạo ra: nội dung tương tác, tính năng sử dụng, hành động thực hiện, thời gian, tần suất hoạt động, thông tin chọn tải lên, đồng bộ hoặc nhập từ thiết bị; Dữ liệu về mối quan hệ của cá nhân: bạn bè, trang, tài khoản, từ khoá, nhóm mà người sử dụng kết nối hoặc tương tác.” Chưa hết, nhật ký truy cập, thông tin thanh toán dịch vụ, địa chỉ IP truy cập dịch vụ, thói quen tìm kiếm, log chat, thời gian giao dịch, thông tin về thiết bị, thuộc tính, hoạt động, số nhận dạng, tín hiệu, dữ liệu từ cài đặt thiết bị, mạng và kết nối, dữ liệu cookie cũng nằm trong khái niệm “thông tin người dùng”, “dữ liệu cá nhân” của Bộ Công an khi đó. Cũng theo dự thảo nghị định này, khi doanh nghiệp mạng xã hội ngừng hoạt động, toàn bộ dữ liệu người dùng phải được chuyển giao cho Bộ Công an. Liệu Bộ Công an có thay đổi cách hiểu của họ trong tương lai không? Khó có cơ sở nào để kỳ vọng vào điều đó. 3. Không được đăng thông tin “nhạy cảm” Blogger Nguyễn Lân Thắng có thể khá tự do đăng tin “nhạy cảm” mạng xã hội Facebook. Nhưng chuyện đó khó có thể xảy ra với mạng xã hội Việt Nam. Ảnh: VOA News. “Nền tảng mạng xã hội phải tuân thủ pháp luật nước sở tại” – đó là phát biểu của ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Thông tin – Truyền thông hôm 15/7. Pháp luật Việt Nam hẳn khác với pháp luật Mỹ (nơi Facebook, Google đóng trụ sở) trong lĩnh vực ngôn luận. Nếu như nước Mỹ nổi tiếng với việc bảo vệ tự do ngôn luận (thậm chí đặt tự do lên trên những thiệt hại mà nhiều người cho rằng nó có thể gây ra), thì Việt Nam lại nổi tiếng với một nền kiểm duyệt khắt khe và những án phạt nặng nề cho những ai “lỡ dại” mà phạm phải những vùng cấm thông tin. Điều 16, Khoản 1 của Luật An ninh mạng có đề cập đến những thông tin cấm như tuyên truyền chống chính quyền, xúc phạm danh nhân/anh hùng dân tộc, xúc phạm cá nhân/tổ chức, đưa tin sai sự thật, v.v. Chuyện “chống chính quyền” thì đã rõ khả năng đi tù, nhưng không phải khi nào người dân cũng biết thế nào là thông tin “nhạy cảm” cần phải tránh. Mới đây, ngày 17/7, Zing đưa tin Công an Phú Thọ xử phạt hành chính ban quản trị nhóm Facebook “Chốt-thanh ba”, vốn là một nhóm kín chuyên chia sẻ vị trí chốt kiểm tra của cảnh sát giao thông và hướng dẫn cách tránh các chốt này. Còn một số ví dụ khác như việc bác sĩ Hoàng Công Truyện lên Facebook nói Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nên nghỉ hưu vì không hiểu nỗi khổ của bác sĩ tuyến cơ sở; hay chuyện cô giáo Lê Thị T bình luận về Chủ tịch tỉnh An Giang là “nhìn cái mặt kênh kiệu”. Cả hai đều bị phạt hành chính năm triệu đồng, mặc dù sau đó chính quyền đã huỷ quyết định xử phạt bác sĩ Hoàng Công Truyện. Với các mạng xã hội Việt Nam, những thông tin nêu trên sẽ khó có thể được lưu hành và sẽ nhanh chóng bị doanh nghiệp gỡ bỏ. Việc gỡ bỏ có lẽ phần nhiều sẽ do doanh nghiệp chủ động làm (một hình thức tự kiểm duyệt như các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn làm), hoặc theo yêu cầu của Bộ Thông tin – Truyền thông và Bộ Công an. 4. Doanh nghiệp ăn cắp dữ liệu người dùng Bao nhiêu phần mềm, ứng dụng đang âm thầm ăn cắp dữ liệu người dùng? Ảnh: Chưa rõ nguồn. Tháng 4/2018, Cốc Cốc, một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tìm kiếm và trình duyệt có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bị các chuyên gia công nghệ tố cáo ăn cắp dữ liệu người dùng. Công ty này phủ nhận nhưng khó có thể bác bỏ bằng chứng các chuyên gia đưa ra. Công bằng mà nói, không chỉ phần mềm, ứng dụng Việt Nam mới ăn cắp dữ liệu người dùng. Một phần mềm, ứng dụng được tải về máy tính, điện thoại luôn hàm chứa khả năng nó bí mật ăn cắp thông tin trong thiết bị đó và gửi cho nhà phát triển, dù nhà phát triển đó có quốc tịch nào đi chăng nữa. Điều người sử dụng Việt Nam không có (như ở các nước phát triển) là một hệ thống pháp luật đủ mạnh để bảo vệ họ và một hệ thống báo chí đủ độc lập để phanh phui các vụ ăn cắp dữ liệu này, nhất là khi doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với chính quyền. Cũng không thể loại trừ khả năng bản thân các chính quyền, đặc biệt là các chính quyền độc tài, đứng đằng sau hoặc hậu thuẫn một số phần mềm, ứng dụng ăn cắp dữ liệu. 5. Viễn cảnh cấm Facebook, Google Kịch bản Facebook và Google rút khỏi Việt Nam giờ đây không còn xa vời nữa. Việc các mạng xã hội, công cụ tìm kiếm nội địa nở rộ chỉ một năm sau khi Luật An ninh mạng được thông qua hàm chứa nhiều nghi vấn. Bản thân Luật An ninh mạng không có nhiều quy định mới với doanh nghiệp và người dùng Việt Nam. Doanh nghiệp và người dùng Việt Nam từ lâu đã nằm trong tầm kiểm soát của chính quyền. Đối tượng thực sự mà đạo luật tai tiếng này nhắm tới, nhiều khả năng, chính là các doanh nghiệp nước ngoài như Facebook, Google. Đây là những doanh nghiệp nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền và tạo ra một môi trường thông tin rất tự do cho người Việt Nam, vốn là điều hoàn toàn không có lợi cho chính quyền. Quan chức Việt Nam không ngần ngại bày tỏ thái độ hoặc là thù địch, hoặc là không thân thiện với Facebook và Google. Họ luôn muốn các doanh nghiệp này hợp tác bằng cách gỡ bỏ thông tin xấu độc theo yêu cầu của chính quyền Việt Nam, đặt máy chủ ở Việt Nam, mở văn phòng ở Việt Nam và cung cấp thông tin người dùng cho chính quyền Việt Nam, như Luật An ninh mạng đã nêu rõ. Lý do cho đến nay Việt Nam vẫn chưa cấm Facebook và Google hoạt động, phần nhiều có lẽ là vì Việt Nam chưa có các dịch vụ thay thế, như cách người Trung Quốc đã làm được từ lâu. Phản ứng tiêu cực từ hàng chục triệu người dùng khao khát thông tin và nhu cầu kết nối là điều chính quyền không mong muốn. Nhưng nếu có hàng loạt dịch vụ thay thế đủ tốt thì cuộc chơi có thể sẽ rất khác. Những dịch vụ này có thể không cần thiết phải do người Việt Nam tự phát triển, mà có thể nhập từ Trung Quốc về, vốn có sẵn và chất lượng đã được kiểm chứng ở thị trường hơn một tỷ dân. Khi hệ sinh thái công nghệ trong nước đã đủ nhiều, đủ tốt, việc cấm Facebook, Google và các dịch vụ nước ngoài sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Trịnh Hữu Long Luật Khoa Báo Chí  
......

Ngoại Giao Kỳ Lạ

Lê Văn Sinh|   1. Nhìn lại lịch sử Trung Quốc cưỡng chiếm Biển Đông. Năm 1954, thừa cơ người Pháp buộc phải rời khỏi Đông Dương, Đài Loan chiếm đảo Ba Đình và Trung Quốc, đồng minh 'vừa là đồng chí vừa là anh em' chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa của chúng ta. Năm 1974, khi người đồng chí 'Môi hở răng lạnh' đang vướng bận vào cuộc chiến thống nhất đất nước, Trung Quốc đánh chiếm nốt các đảo ở Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng hòa. Nước Mỹ bỏ rơi đồng minh và coi đó là món quà tặng Mao. Năm 1988, Trung Quốc đánh chiếm 7 đảo/bãi đá ở Trường Sa là Gạc Ma, Chữ Thập, Subi, Gaven, Vành Khăn, Châu Viên và Tư Nghĩa. Các chiến hạm của hải quân Liên Xô đóng ở quân cảng Cam Ranh đã không làm gì để bảo vệ đồng minh như Hiệp ước Hòa bình Hữu nghị Việt Xô ký trước đó mươi năm giữa Lê Duẩn và L. Brê giơ nhep. Kể từ đây, Trung Quốc cắm chân ở Hoàng Sa, xây dựng các đảo nhân tạo, sân bay, bến cảng, bãi tên lửa và biến những hòn đảo này thành các pháo đài quân sự trên Biển Đông. Năm 2012, Trung Quốc vây chiếm bãi Scaborough, cách nước này 800 hải lý và cách Philippines 80 hải lý, nhưng nước Mỹ đã không làm gì để bảo vệ đồng minh như Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philippines ký năm 1951. Từ năm 1990 đến nay, Trung Quốc thực hiện chiến thuật ngoại giao bẻ đũa từng chiếc với các nước Asean, biến vùng không trang chấp thành tranh chấp, đe dọa kinh tế và quân sự buộc các các quốc gia láng giềng lùi bước trong việc khai thác và liên danh khai thác dầu khi trên vùng biển của mình. Trung Quốc đang kiên trì thực hiện lối hành xử của bọn khủng bố, cướp bóc, trấn lột ngư dân Việt Nam, philippines... trên Biển Đông hòng làm họ khánh kiệt và sợ hãi mà rời bỏ ngư trường truyền thống, vốn là biển của đất nước mình. Hơn nửa thế kỷ qua, các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc đã áp dụng triệt để sách lược 'Tằm ăn dâu' và 'Rình rập vồ mồi' rất thành công. Thực tế hơn sáu mươi năm cưỡng chiếm Biển Đông của Trung Quốc nói lên điều đó. 2. Cách hành xử của Việt Nam. Tôi không nghĩ rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam không nhận thức ra mối hiểm họa Trung Hoa, nhất là sau sự kiện Trung Quốc phát động cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 và cuộc chiến này kéo dài cho tới khi lãnh đạo hai nước ký Hiệp nghị Thành Đô năm 1990 mới kết thúc. Điều tôi lấy làm lạ là, các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn coi kẻ đã cướp một phần đất đai của tổ tiên để lại bằng cách ép Việt Nam vẽ lại biên giới trên bộ và trên biển vịnh Bắc bộ; kẻ đã chiếm trọn Hoàng Sa, một phần Trường Sa và đang vây ráp chúng ta ở Biển Đông là đồng chí. Trong các cuộc thương thảo ngoại giao với Trung Quốc, người ta thường viện dẫn giữ gìn 'Đại cục', tuân theo phương châm 'Bốn tốt' và 'Mười sáu chữ vàng' do Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đề xuất mà bỏ qua nguyên tắc cơ bản trong bang giao quốc tế là BÌNH ĐẲNG và CÙNG CÓ LỢI. Các sự kiện tàu Hải Dương 981 năm 2014, hay tàu Hải Dương 8 vừa mới đây, khoan thăm dò dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam theo Công ước Liên hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 là đều có tính toán của giới lãnh đạo Trung Quốc. Nếu để ý các động thái của Trung Quốc ở Biển Đông liền trước chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khiến chúng ta nghĩ đến chính sách ngoại giao răn đe của nước này. Các sự kiện đó là: 1. Từ ngày 29/06 đến 03/07 bắn hỏa tiễn đất đối hạm ở Biển Đông. (1) 2. Từ ngày 03/07 đến nay, tàu Hải Dương 8 hoạt động thăm dò địa chất ở bãi Tư Chính thuộc chủ quyền Việt Nam. Thay vì hủy chuyến đi để phản đối Trung quốc xâm phạm chủ quyền quốc gia, Việt Nam vẫn đi Bắc Kinh. Tiếc rằng bà Ngân giữ im lặng. Cả hai bên chỉ nói tới củng cố và nâng cao hợp tác chiến lược toàn diện và sự tin cậy chính trị lẫn nhau. Bà Ngân còn mời Chủ tịch Nhân đại Lật Chiến Thư qua thăm Việt Nam. (2) Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng dù có đưa ra thông điệp mạnh mẽ bao nhiêu trong các ngày 16 và 19/7 cũng không có sức nặng bằng một thái độ cứng rắn khẳng định chủ quyền đất nước của bà Ngân tại Trung Nam Hải. Xem ra, Trung Quốc lại thành công trong phép thử bãi Tư Chính của họ, biến vùng biển không tranh chấp thành tranh chấp. Ba ngày trước, 21/07, ông Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương ĐCSVN Võ Văn Thưởng, sang Trung Quốc tham dự hội thảo lý luận lần thứ 15 giữa hai đảng. Tôi tự hỏi, trong tình cảnh bị đe dọa, khủng bố ngoài Biển Đông như thế này, đoàn Việt Nam có thể thảo luận được gì đây? 3. Lời kết. Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả, nhưng điều đó không có nghĩa là làm bạn với kẻ thù. Là nước nhỏ yếu bên cạnh Trung Quốc thì phải biết mềm dẻo và linh hoạt trong chính sách đối ngoại với người hàng xóm bất hảo này. Nhưng chính sách ngoại giao đó không phải là sự nhún nhường vô nguyên tắc, làm suy yếu tinh thần tự tôn dân tộc của người Việt Nam. Trung Quốc là người bày ra ván cờ Biển Đông, họ chủ động tiến hoặc lui tùy cơ hành động. Dã tâm chiếm 60% biển Việt Nam của Trung Nam Hải là không thay đổi. Một nền ngoại giao nhún nhường kỳ lạ kiểu này thì kẻ thắng ván bài này sẽ về tay Trung Quốc. LVS. ________________ 1.BBC News, ngày 08/07/2019. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thăm TQ, nâng cao 'tin cậy chính trị'. 2. mnews.chinhphu.vn, ngày 08/07/2019. Chủ tịch Quốc hội thăm chính thức Trung Quốc. - Dân Trí. ngày 12/07/3019 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân hội đàm với Chủ tịch Nhân đại Trung Quốc.  
......

Khoảng cách giữa lời nói và hành động của CS

- ĐỖ NGÀ – Fb Van Nga DO Giữa nói và làm bao giờ cũng có khoảng cách, có những khoảng cách lấp được và có những khoảng cách không thể nào lấp được. Khi nói ra mà anh không thực hiện được lời nói thì nó có nhiều nguyên nhân. Có thể kể ra 2 nguyên nhân chính: Nguyên nhân thứ nhất, kẻ thực hiện lời nói có mục mục đích duy nhất là dối trá, thì nói và làm luôn là 2 hành động trái ngược. Ví dụ như chính quyền CS nói “nhà nước của dân do dân và vì dân” thì tất nhiên thực tế nhà nước đó là của đảng do đảng và vì đảng. Loại này thì bất trị, không bao giờ chúng sửa đổi; Nguyên nhân thứ nhì, là kẻ đó hứa nhưng không có khả năng lượng sức mình. Nghĩa là sao? Là họ ảo tưởng năng lực của họ cao lắm, nhưng thực ra là bản thân vô năng không thể thực hiện được. Lấy ví dụ như, CS đặt mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam về cơ bản trở thành nước công nghiệp. Đặt mục tiêu là vậy nhưng toàn ĐCS đều là vô năng, họ ra đủ thứ chính sách nhưng thực hiện không được.   Như vậy câu hỏi đặt ra là, chính quyền các nước dân chủ có khi nào giữa lời nói và hành động của chính phủ có khoảng cách không? Câu trả lời là có, có thể họ hứa nhưng thực hiện lời hứa không nổi chứ không bao giờ chủ trương dối trá như CS. Ở đất nước này, lãnh đạo không thực hiện lời hứa thì tất nhiên, đến hết nhiệm kỳ sau dân chọn người khác lên thay. Hứa mà không làm thì thay, còn hứa mà làm được thì giữ lại để lãnh đạo đất nước, đó là nguyên nhân đưa đến sự phát triển đất nước. Như vậy nói đi đôi với làm, người ta chỉ tìm thấy nó hiện diện trong các nhà lãnh đạo đất nước ở xứ dân chủ, còn ở độc tài CS thì không bao giờ có. Vì sao? Vì đơn giản, CS hoặc dối trá nói một đường làm một nẻo, hoặc nói nhưng năng lực kém thực hiện nửa vời làm mọi dự định đều thất bại.   Dối trá là một chủ trương lớn của đảng, nó quyết định tính sống còn của đảng. Vì sao? Vì đảng không có năng lực quản trị đất nước nên, đảng biết c hứa với dân làm cũng không nổi. Vì vậy, dối trá là chính sách mang tính sống còn của đảng. Ở các nước dân chủ, không hề tồn tại cái gọi là Ban Tuyên Giáo như ĐCS đã làm. Bởi vì ở những đất nước này lãnh đạo đã hứa thì họ dốc toàn lực để thực hiện lời hứa, chỉ có khó khăn không thể vượt qua mới làm họ không hoàn thành chứ họ không có chủ trương hứa lèo nói xạo trước toàn dân. Cho nên, họ chẳng việc gì phải có cái gọi là Ban Tuyên Giáo để lừa gạt nhân dân làm gì cả. Thực hiện không xong thì xuống cho người khác lên làm chứ việc gì dối trá để duy trì quyền lực?   Khi CS cho báo chí loan báo một điều gì ầm ĩ thì, ẩn đằng sau đó luôn có mục đích chính trị của Ban Tuyên Giáo. Mấy ngày nay, sau khi báo chí nước ngoài đưa tin về Bãi Tư Chính dày đặt trên mạng xã hội, thì cuối cùng báo chí nhà nước cũng lên tiếng nhưng ở một mức độ dè chừng. Khi không thể phanh được một chiết xe đã mất phanh thì, thì tài xế bẻ lái cho xe vào chỗ an toàn nhất có thể, ấy là thượng sách. Tương tự vậy, khi tin tức Trung Quốc quần Việt Nam tại Bãi Tư Chính không thể nào bưng bít được nữa, và sự ngày càng có dấu hiệu nóng lên làm người dân ngày càng muốn đi tìm kiếm nguồn tin để giải cơn khát thông tin. Trước thực tế như vậy, thì Ban Tuyên Giáo đã làm gì? Ban Tuyên Giáo đã bật đèn xanh cho báo chí nhà nước đăng tin tức về Bãi Tư Chính, nhưng với lời lẽ nhẹ nhàng và họ gọt dũa bớt mức độ nghiêm trọng sự việc để làm cho sự phản ứng của nhân dân không đẩy lên quá mức. Nếu bưng bít không được thì vẫn đăng nhưng đăng theo kiểu lái dư luận về phía không còn nghiêm trọng nữa.   Giả sử hiện nay ở Việt Nam có 5 triệu người đang khát tin tức về Bãi Tư Chính, vì nguồn tin báo nhà nước không có nên họ cố tìm tin tức Bãi Tư Chính đọc. Nếu trong lúc này Ban Tuyên Giáo tiếp tục im lặng thì 5 triệu người này sẽ tìm đến các trang tin từ facebook, BBC, VOA, RFA .. thì rất có thể 1 triệu người này sẽ xuống đường, lúc đó nguy cho chính quyền. Biết không thể che đậy, Ban Tuyên Giáo cho báo chí đưa tin. Mục đích là để kéo bạn đọc về để định hướng họ theo ý đảng. Giả sử, trong 5 triệu người đang khát tin đó thì có đến 4,5 triệu người vớ được nguồn tin báo chí chính thống thì họ sẽ trở thành thờ ơ hơn với vận mệnh đất nước. Còn lại rất ít đọc nguồn ngoài chính thống, vì ít nên họ không đủ đông để làm nên chuyện như ngày 10/06 năm ngoái được, thế là Ban Tuyen Giáo góp công lớn trong việc không cho biểu tình bùng phát. Đó là mục đích của báo chí CS đưa tin về căng thẳng Bãi Tư Chính, chứ không phải họ muốn chống Tàu như mọi người vẫn kỳ vọng một cách ngây thơ.   Với CS, lời nói của họ không như những gì mà chúng ta nghĩ, họ luôn nói một đường, dụng ý một nẻo. Vì sao? Vì đơn giản họ là CS điều đó thuộc bản chất di truyền của họ rồi, thế thôi.   - ĐỖ NGÀ – Fb Van Nga DO  
......

Đối Phó Dân

Đỗ Ngà - Van Nga Do| Pháp luật như là một cái khuôn quy định cách hành xử toàn xã hội. Nếu chính quyền đi theo sự phân luồng của luật pháp, thì chắc chắn nhân dân không bao giờ sợ hãi. Vì sao? Vì nhân dân biết rằng, mình đi đúng luồng mà luật pháp đã phân chia, thì chính quyền chẳng làm gì được. Đó là trật tự của một nhà nước pháp quyền. Nơi đâu có nhà nước pháp quyền thì nơi đó không có sự sợ hãi. Ngược lại, nơi nào dân chúng sợ hãi thì nơi đó không có pháp quyền. Vì sao sự sợ hãi lại gắn với sự chà đạp luật pháp? Để hiểu rõ, xin dùng ví dụ minh họa. Giống như con đường có 2 chiều ngược nhau, mỗi bên đi theo một chiều. Chiều xuôi gồm hàng trăm xe máy xem đạp chen chút nhau, tuy đông nhưng những chủ xe nhỏ bé này luôn giữ lề của họ. Ở chiều ngược lại là một đoàn xe container nối đuôi nhau chạy, nếu tài xế container trở chứng, nó cho chiếc xe khổng lồ đâm sang làn bên kia thì tất sẽ gây ra thảm họa, và với những loại tài xế như vậy, người đi xe máy và xe đạp rất sợ họ. Nếu kẻ đi chiều xuôi và chiều ngược luôn giữ lề, thì chẳng bao giờ có tai nạn xảy ra. Đoàn xe container là hình ảnh của chính quyền, đoàn người đi xe đạp và xe máy là hình ảnh dân chúng. Ở Việt Nam, đoàn xe container Đảng chủ động lấn vào làn đường của lề dân, dân vẫn giữ đúng lề của họ nhưng vẫn không yên. Kẻ lái xe đầu kéo phải đâm sang làn bên dân để giết chết hàng loạt thường dân vô tội một cách có dụng ý. Để làm gì? Mục đích là họ cho đám dân đen kia thấy rằng “bọn tao là những thằng không tôn trong luật, bọn tao muốn lấn sang phía kia dẫm chết bất kỳ đứa nếu chúng tao muốn. Trên đời này không có gì có thể chế tài để bọn tao phải theo luật, nên tao thích phá luật là phá. Bọn tao thích làm thế cho bọn bây ngoan ngoãn, chúng mầy làm gì được bọn tao?”, đại khái ý đồ của ĐCS với nhân dân được tóm gọn trong câu nói như vậy. Dù họ không nói ra, nhưng ĐCSVN muốn thể hiện cho toàn dân biết rằng, họ sẵn sàng đạp lên luật để gieo rắc sự sợ hãi nhằm phục vụ ý đồ cai trị. Hiện nay chính quyền CS đang duy trì sự cai trị của mình bằng bàn tay ác. Bàn tay ác này được chắp cánh bằng những điều luật đạp thẳng vào mặt bản Hiến Pháp do chính họ viết ra: như điều 79, 88, 288 Bộ Luật Hình là một ví dụ, những luật này được đảng viết ra để kết tội người dân tùy tiện nhằm triệt hẳn những quyền mà Hiến pháp đã quy định. Chưa hết, những điều luật đạp lên Hiến Pháp chưa đủ làm làm dân phải co rút vào vỏ ốc sợ hãi, nên chính chính quyền cần làm nhiều hơn thế. Họ làm gì? Họ chủ trương tăng cấp độ sợ hãi trong mỗi người dân lên một tầm cao hơn nữa. Bằng cách nào? Bằng cách là ra chủ trương phạm pháp để dân không còn biết kêu cứu ai được, thế là gây nên sự hoang mang thường trực trong tư tưởng dân chúng. Đó là là mục đích chính trong sách lược cai trị. Nửa kín nửa hở để cho dân tự biết sợ, chính quyền cho công an có thể bịt khẩu trang hóa thân thành côn đồ tấn công người dân vô cớ, hoặc họ nuôi côn đồ để dùng vào ý đồ bẩn. Mục đích là để dân có biết cũng không quy kết chính quyền phạm pháp, và đồng thời đảng cũng muốn gởi thông điệp với nhân dân rằng “Chuyện gì chúng tao cũng dám làm. Hãy câm họng chịu đựng mà sống”. Đàn áp dân bất chấp Hiến pháp hay Luật pháp, giả dạng côn đồ hoặc mượn tay côn đồ thực hiện những hành động bẩn thỉu ngoài vòng kiểm soát của luật pháp thực sự là chủ trương lớn. Chủ trương này quan trọng đến mức, ngày 20/06 vừa qua, ông Nguyễn Phú Trọng phải xuất hiện trước báo chí nhắc nhở toàn đảng của ông rằng “Tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chân chính của công nhân, người lao động, kích động, lôi kéo biểu tình, tụ tập gây rối, làm mất an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.”. Nói cho tròn thì ý ông Trọng nói với toàn đảng ông là như thế này “Hãy coi chừng đám dân đen đó! Hãy làm cho chúng nó sợ hãi để không đứa nào dám biểu tình nữa, hiểu chửa?”. Và tất nhiên, để gieo rắc sợ hãi thì công an phải phạm pháp và ra tay độc ác. Tại sao sau hơn 1 tháng im lặng sau cánh gà, giờ ông Trọng phải ra sân khấu nhắc nhở toàn đảng của ông như thế? Bởi vì một điều đơn giản, trước đó mấy ngày tàu hải giám Trung Quốc đã quần tàu hải giám Việt Nam tại Bãi Tư Chính hòng cướp lấy chủ quyền Việt Nam. Khi có tin tức như vậy, ông Trọng lo sợ. Ông sợ mất chủ quyền ư? Không, chủ quyền chả là gì cả, ông ta sợ dân biểu tình chống Trung Quốc làm lung lay chế độ mà thôi. Vì thế mà ông ta đã ra mặt trấn áp tinh thần toàn dân, và cũng như đồng thời bắn tín hiệu cho toàn đảng của ông là hãy sẵn sàng đối phó dân đen. Đứng trước 2 cái họa là họa mất nước và họa mất đảng, thì ĐCS xem họa mất đảng lớn hơn. Đó là lý do ông Trọng phải ra mặt để củng cố tinh thần cho đảng chuân bị đối phó với dân. Giặc xâm lấn, ông ta không lo đối phó với giặc mà lo đối phó dân, đó là một bất hạnh lớn của dân tộc.  ĐỖ NGÀ  Fb Van Nga DO  
......

Tuyên Bố Về Biển Đông

Hoàng Hưng| TUYÊN BỐ VỀ BIỂN ĐÔNG (LẦN THỨ BA) Với 17 tổ chức, 945 cá nhân ký tên Từ ngày 3 đến 21 tháng 7 năm 2019, Trung Quốc ngang nhiên đưa tàu thăm dò Hải Dương 8 với sự hộ tống của nhiều tàu cảnh sát biển và dân quân biển xâm nhập Vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính, Vũng Mây, nơi Việt Nam đang thực hiện các hoạt động dầu khí của mình theo đúng Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS). Đây là một hành động rất nguy hiểm đối với an ninh, hoà bình của khu vực; tiếp tục leo thang trong quá trình nhất quán thực hiện tham vọng bá quyền biển Đông của Trung Quốc. Cuộc xâm nhập tiến hành đúng vào thời điểm Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Lật Chiến Thư mời Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân thăm hữu nghị chính thức. Đó là động tác chà đạp lên những nguyên tắc ngoại giao tối thiểu, chứng tỏ những lời nói hữu hảo của Trung Quốc chỉ nhằm che đậy những hành động thù địch của họ. Sau nhiều lần cố gắng tỏ thiện chí, ngày 19 tháng 7 năm 2019 Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phải lên tiếng mạnh mẽ phản đối Trung Quốc về hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Ngày 20 tháng 7 năm 2019 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mạnh mẽ yêu cầu Trung Quốc ngưng ngay hành động bắt nạt và can thiệp với hoạt động theo dạng khiêu khích và gây bất ổn tại Biển Đông. Tuy nhiên đến ngày 22 tháng 7 năm 2019, quan sát viên quốc tế vẫn ghi nhận sự có mặt của các tàu Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam theo UNCLOS. Trải qua 4000 năm biến động của lịch sử, dân tộc Việt Nam vẫn đứng vững bên bờ Thái Bình Dương. Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc đã nói: “Dẫu cường nhược có lúc khác nhau song hào kiệt đời nào cũng có”. Người Việt Nam từ nhiều đời ông cha luôn có cách xử sự mềm dẻo với một nước lớn ở sát bên mình, nhưng không bao giờ đánh mất lòng tự tôn tự hào của một dân tộc anh hùng. Đất nước đang đứng trước tình hình rất nguy hiểm. Chiến tranh có thể nổ bất kỳ lúc nào. Nhân dân Việt Nam quyết tự bảo vệ đất nước mà không biến thành con cờ của các thế lực ngoại quốc. Chúng tôi, các tổ chức xã hội dân sự và cá nhân có tên dưới đây ra tuyên bố yêu cầu Nhà nước Việt Nam: 1. Tăng cường nội lực của đất nước làm chỗ dựa cho an ninh quốc phòng, thực hiện kế sách giữ nước của Đức Thánh Trần Hưng Đạo: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Làm tất cả những gì có lợi cho mối đoàn kết dân tộc trong và ngoài nước; thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết và những điều được qui định trong Hiến pháp Việt Nam. Trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm, sửa các luật phản dân chủ như: luật đất đai, luật báo chí, luật an ninh mạng, ban hành luật lập hội, luật biểu tình... Tiến tới một Nhà nước Việt Nam có thể chế dân chủ pháp quyền phổ quát. Nâng cao sức chiến đấu và lòng trung thành bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân của Quân đội, đặc biệt là Hải quân, Cảnh sát biển. 2. Trong các mối quan hệ với Trung Quốc, đặc biệt là quan hệ kinh tế thương mại, phải hết sức cẩn trọng, đề cao cảnh giác, đặt quyền lợi quốc gia trên hết. 3. Khẩn trương đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với Mỹ và các nước tôn trọng luật pháp quốc tế và hiện không cưỡng chiếm đất đai biển đảo của Việt Nam nhằm bảo vệ tổ quốc một cách hiệu quả. 4. Lên tiếng tố cáo trước Hội đồng Bảo an, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế việc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam ở khu vực bãi Tư Chính, Vũng Mây… vi phạm Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS). Khẩn trương chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc ra các Toà án Quốc tế thích hợp. 5. Thông tin thường xuyên và kịp thời diễn biến tình hình biển Đông cho toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới, tranh thủ sự đồng thuận của công luận cho cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Mặt khác, Nhà nước Việt Nam không được ngăn cản quyền công khai bày tỏ một cách ôn hoà lòng yêu nước, ý chí bảo vệ Tổ quốc của người dân Việt Nam. Ngày 24 tháng 7 năm 2019 DANH SÁCH KÝ TÊN Tổ chức 1. Nhóm lập quyền dân. Đại diện: Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai  2. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng. Đại diện: Nhà hoạt động xã hội Lê Thân, Chủ nhiệm CLB   3. Diễn đàn Xã hội Dân sự. Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A  4. Diễn đàn Bauxite Việt Nam. Đại diện: GS Phạm Xuân Yêm  5. Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders). Đại diện: Thạc sỹ Giám đốc Vũ Quốc Ngữ  6. Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Nguyễn Lê Hùng  7. Nhóm Hoạt động ủng hộ Quốc Dân Việt. Đại diện: Đoàn Văn Lập, San Jose, CA Hoa Kỳ  8. Hội Nhà Giáo Chu Văn An. Đại diện: Vũ Quốc Hùng  9. Diễn đàn Vietnam 21 tại CHLB Đức. Đại diện: Tiến sĩ Dương Hồng Ân  10. Phong trào Dân quyền. Đại diện: Lê Văn Kiên - tại Anh Quốc  11. Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: LM Nguyễn Hữu Giải & LM Nguyễn Văn Lý, Nhà Hưu dưỡng TGP Huế  12. Tập Hợp Quốc Dân Việt Quốc nội. Đại diện: Hoàng Lê Hy Lai, Nguyễn Trung Kiên, Sài Gòn  13. Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đại diện: Hòa Thượng Thích Không Tánh  14. Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo Thuần tuý. Đại diện: Lê Quang Hiển, Chánh thư ký  15. Họp Mặt Dân Chủ, California U.S.A. Đại diện: Nguyễn Thanh Hà  16. Bút nhóm Đặc san Gọi Đàn Westminster CA 92683. Đại diện: Anh Huỳnh, chủ bút  17. Tập thể Công ty In và Quảng cáo 270 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội. Đại diện: Phạm Duy Ba Cá nhân 1. Nguyễn Quang A, Tiến sĩ Tin học, Hà Nội   2. Nguyễn Khắc Mai, Trung tâm Minh Triết, Hà Nội   3. Nguyễn Thị Kim Chi, Nghệ sĩ Ưu tú, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn   4. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó TBT báo SGGP, Sài Gòn  5. Trần Minh Thảo, CLB Phan Tây Hồ, Viết văn, Bảo lộc, Lâm Đồng  6. Hoàng Hưng, Nhà thơ-dịch giả, Sài Gòn  7. Đào Công Tiến, PGS. TS, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. HCM  8. Hồ Ngọc Nhuận, Nhà báo, Sài Gòn  9. Vũ Trọng Khải, PGS. TS, Chuyên gia độc lập về chính sách nông nghiệp, Sài Gòn  10. Phạm Hoàng Tam Lưu, Kiến trúc sư, Sài Gòn  11. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc sở Tư pháp thành phố HCM  12. Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn Hà Nội, thành viên CLB LHĐ  13. Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm), Hà Nội  14. Dương Đình Giao, Nhà giáo nghỉ hưu, Hà Nội  15. Hoàng Anh Khiêm, Giảng viên đại học, TP. HCM  16. Nguyễn Viện, Nhà văn, Sài Gòn  17. Phạm Nguyên Trường, Dịch giả, Vũng Tàu  18. Phạm Anh Tuấn, Dịch giả tự do, Hà Nội  19. Nguyễn Tuệ Hải, Hưu trí, Canberra - Australia  20. Nguyễn Gia Lưu, Sài Gòn  21. Nguyễn Quang Nhàn, CLB Phan Tây Hồ, Đà Lạt  22. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège, Bỉ. Sống tại Sài Gòn  23. Dương Khánh Lâm, Nhân viên kỹ thuật, Sài Gòn  24. Tiêu Dao Bảo Cự, Nhà văn tự do, Đà Lạt  25. Nguyễn Huệ Chi, GS Ngữ văn, Hà Nội  26. Đặng Thị Hảo, TS Văn học, Hà Nội  27. Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia  28. Phùng Hoài Ngọc, cựu Giảng viên đại học, An Giang  29. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, Nhà giáo, Sài Gòn  30. Võ Văn Tạo, Nhà báo, Nha Trang  31. Lê Thăng Long, Nghiên cứu quản trị chiến lược, cựu Tù nhân lương tâm, Quận 1, Sài Gòn.  32. Trần Tiến Đức, Nhà báo độc lập, Đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội  33. Hoàng Thị Hà, Giáo viên hưu trí, Thanh Xuân, Hà Nội  34. Lê Quang Hợp, Nghỉ hưu, tại TP. HCM  35. Nguyễn Hàn Chung, Nhà thơ, Houston Texas, Hoa Kỳ  36. Tô Lê Sơn, Thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn  37. Đặng Hữu Nam, Linh mục, Giáo phận Vinh  38. Đặng Văn Lập, Kiến trúc sư, Hà Nội  39. Sơn Hồ, Freelancer, Đảo Rhode, Hoa Kỳ  40. Hoàng Dũng, PGS. TS, TP. HCM  41. Hoàng Cường, Kỹ sư giao thông, Hà Nội  42. Nguyễn Đình Cống, GS, hưu, Hà Nội  43. Nguyễn Mạnh Sơn, Cán bộ hưu trí, Hải Phòng  44. Nguyễn Viết Dũng, Công dân Việt Nam, Hà Nội  45. Phạm Lưu Vũ, Nhà văn, Hà Nội  46. Vi Đức Hồi, Lạng Sơn  47. Nguyễn Tiến Dân, Nhà giáo, Hà Nội  48. Trần Ngọc Toàn, Kinh doanh tự do, Thành phố Hà Nội  49. Phan Thanh Liêm, Công dân nước CHXHCN Việt Nam, kinh doanh bất động sản  50. Đinh Quang Tuyến, Q.8, TP. HCM  51. Nguyễn Lương Thịnh, Hưu trí, Thủ Đức, TP. HCM  52. Nguyễn Ngọc Hùng, Hưu trí  53. Trần Kế Dũng, Australia  54. Nguyễn Ngọc Ánh, Nghề nghiệp tự do, Bảo Lộc, Lâm Đồng  55. Phạm Thế Cường, Sĩ quan quân đội nghỉ hưu  56. Nguyễn Kế Quang, KS Xây dựng, Quy Nhơn, Bình Định  57. Nguyễn Đình Ấm, Nhà báo, Hà Nội  58. Hà Quang Vinh, Hưu trí Quận 11, TP. HCM  59. Phan Đắc Lữ, Nhà thơ, Thủ Đức, Sài Gòn  60. Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An  61. Đoàn Công Nghị, Hành nghề tự do, Nha Trang, Khánh Hoà  62. Đỗ Duy, Chuyên viên kỹ thuật, Bà Rịa - Vũng Tàu  63. Nguyễn Chí Công, TS, Hà Nội  64. Nguyễn Trọng Bách, Kỹ sư, Nam Định  65. Nguyễn Thu Giang, nguyên Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP. HCM  66. Nguyễn Văn Lịch, cựu Lính xe tăng, Đống Đa, Hà Nội  67. Nguyễn Ngọc Lanh, nguyên GS đại học Y Hà Nội, Nhà giáo Nhân dân  68. Vũ Quốc Hưng, Giáo viên trường THPT Nguyễn Hữu Tiến, Duy Tiên, Hà Nam  69. Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nghiên cứu viên, hưu trí, TP. HCM  70. Võ Thị Cẩm Nhung, Hưu trí, Nha Trang  71. Vũ Ngọc Tiến, Nhà văn, Hà Nội  72. Vũ Hồng Ánh, Nghệ sĩ cello, Sài Gòn  73. Võ Xuân Tòng, Hội Nhà văn Hà Nội  74. Trần Trung Hậu, Giảng viên, TP. HCM  75. Đỗ Như Ly, Hưu trí, Sài Gòn  76. Phạm Đình Trọng, Nhà văn, Sài Gòn  77. Thái Kế Toại, Đại tá An ninh, Nhà văn, Hà Nội  78. Dương Sanh, Nghề nghiệp tự do, Vạn Ninh, Khánh Hòa.  79. Nguyễn Kim Khánh, Lao động tự do, Sài Gòn   80. Hứa Minh Hải Đăng, Lao động tự do, Đà Lạt  81. Liêu Thái, Lao động tự do, Quảng Nam  82. Lương Xuân Bằng, Công nhân xây dựng tự do, Cần Thơ  83. Đinh Công Khải, Họa sỹ  84. Nguyễn Ngọc Ngân Nga, Kinh doanh, TP. HCM  85. Huỳnh Phi Long, Công dân Sài Gòn  86. Nguyễn Khắc Bình, Kỹ sư, Hà nội  87. Dạ Ngân, Nhà văn, Sài Gòn  88. Nguyễn Thịnh Phú, Hà Nội  89. Đỗ Trung Quân, Nhà thơ, Sài Gòn  90. Phạm Thị Hảo, Hưu trí, Thái Nguyên  91. Ngô Thị Hồng Lâm, Nghiên cứu khoa học nghỉ hưu, Vũng Tàu  92. Phạm Cường, Đạo diễn phim, Hamburg, CHLB Đức  93. Nguyễn Việt Hải, Học sinh C.3 An Dương, Hải phòng  94. Phạm Thị Ánh Nga, Nha Trang, Khánh Hòa  95. Đinh Đức Long, Bác sĩ, Sài Gòn  96. Tô Linh Giang, Phố Hàng Chuối, Hà Nội  97. Trần Bang, Kỹ sư, thành viên CLB LHĐ, Sài Gòn   98. Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), Nhà báo tự do, Sài Gòn  99. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, Sài Gòn  100. Lại Nguyên Ân, Nhà nghiên cứu văn học, Hà Nội  101. Mai Thái Lĩnh, Nhà nghiên cứu, CLB Phan Tây Hồ, Đà Lạt  102. Bùi Hiền, Hưu trí, tại Canada  103. Bùi Công Tự, Hưu trí, TP. HCM  104. Nguyễn Công Hiệp, Kinh doanh tự do, Quận 2, TP. HCM  105. Đỗ Việt Tuy, Cây viết tự do, Sài Gòn  106. Phạm Phương Luyện, Giảng viên chính Đại học Ngoại ngữ ĐHQG (hưu trí)  107. Trương Hoàng Long, Hà Nội  108. Hà Trọng Tấn, CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn  109. Huỳnh Văn Bé, Nghệ nhân gốm, Bình Dương  110. Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Hà nội  111. Võ Công Trí, hưu trí, Hóc Môn, TP. HCM  112. Lê Đình Lưu, nuôi trồng nấm, Củ Chi, TP. HCM  113. Nguyễn Thị Cát Tiên, buôn bán tự do, Q7, TP. HCM  114. Cao Thị Hoàng Ngọc, giáo viên Trung tâm tiếng Anh Q7, TP. HCM  115. Ngô Văn Nam, tài xế, Q.2, Sài Gòn  116. Phan Văn Đức, chuyên viên tài chính, TDM, Bình Dương  117. Lý Thị Dung, kinh doanh online, Q3, TP. HCM  118. Lê Văn Năm, kiến trúc sư, Hà Nội  119. Tạ Quang Trí, công an nghỉ hưu, Q9, TP. HCM  120. Dương Chí Cao, hưu trí, Q.12, TP. HCM  121. Hồ Nguyễn Hoàng Nguyên, lái xe đường dài, Thanh Hóa  122. Trần Văn Chấn, kỹ sư dầu khí, Bà Rịa - Vũng Tàu  123. Trần Thị Băng Thanh, PGS. TS. Văn học, Hà Nội  124. Lê Văn Mẫn, CLB hưu trí, Q.12, Sài Gòn  125. Nguyễn Đức Tùng, nhà thơ, Canada  126. Chân Phương, nhà thơ, Hoa Kỳ  127. Hà Sĩ Phu, TS Sinh học, CLB Phan Tây Hồ, Đà Lạt  128. Lê Văn Tâm, nguyên Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Nhật Bản  129. Trần Hoàng Phố, nhà thơ, Huế  130. Tôn Gia Khai, nghỉ hưu, Varsaw, Ba Lan  131. Đặng Minh Liên, hưu trí, Hà Nội  132. Nguyễn Minh Phát, Ontario, Canada  133. Trần Nghi Hoàng, nhà văn, nhà báo, Pennsylvania, Hoa Kỳ  134. Khánh Phương, nhà văn, nhà báo, Pennsylvania, Hoa Kỳ   135. Trương Minh Thủy, người lao động, Q. Tân Phú, TP. HCM  136. Đào Tiến Thi, Nhà nghiên cứu ngôn ngữ và văn học, nguyên Uỷ viên BCH Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội  137. Nguyễn Mạnh Hùng, Mục sư, Thủ Đức, Sài Gòn  138. Trần Đức Quế, hưu trí, Hà Nội  139. Nguyễn Tất Hanh, Hải Phòng  140. Lê Quý Hồ, kế toán - kiểm toán, Thị trấn Hà Lam, Thăng Bình, Quảng Nam  141. Phan Xuân Sinh, nhà thơ, Hoa Kỳ  142. André Menras - Hồ Cương Quyết, nhà giáo Pháp Việt, sống ở Pháp  143. Lê Khánh Luận, TS nguyên giảng viên Đại học Kinh tế TP. HCM, TV CLB LHĐ  144. Nam Khanh Tran, giao hàng, quận 5, Sài Gòn  145. Ngô Thị Thứ, giáo viên nghỉ hưu, TP. HCM  146. Terry The Pham, Acelity Canada  147. Huỳnh Kim Báu, nguyên TTK Hội Tri thức, TP. HCM  148. Trương Hà Vũ, hưu trí, Hà Nội  149. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, nhà báo, Đà Lạt  150. Bùi Trọng Kiên, TS. Viện Toán học, Viện Hàn lâm KH&CN VN, Hà Nội  151. Phạm Hồng Hà, hưu trí tại Nghệ An  152. Vũ Thu Hương, TS Địa Vật lý, TCTy Thăm dò khai thác dầu khí PVEP, Hà Nội  153. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên PTBT báo Tuổi Trẻ  154. Nguyễn Đức Nhân, hưu trí, Sài Gòn  155. Trần Đình Sử, GS văn học, Hà Nội  156. Nguyễn Thị Thanh Bình, nhà văn, Hoa Kỳ  157. Van Pham, IT Technician, Brisbane, Australia  158. Nguyễn Hồng Kiên, nghiên cứu viên, Hà Nội  159. Nguyễn Xuân Hùng, bác sỹ, Hà Tĩnh  160. Van Tu Thai, kỹ sư CNTT, North Carolina, USA  161. Nguyen Thi Bich Hanh, giao vien, North Carolina, USA  162. Nguyen Thien An, hoc sinh, North Carolina, USA  163. Hồ Quang Huy, kỹ sư Đường sắt, Nha Trang, Khánh Hòa  164. Chiêu Anh Nguyễn, nhà thơ, Sài Gòn  165. Đỗ Đình Oai, giáo viên Thạc sĩ toán học, Quảng Ngãi  166. Mã Lam, nhà thơ, Sài Gòn  167. Julia Thủy Nguyễn, Immigaration Officer, Hoa Kỳ  168. Nguyễn Chu Quyết, Nghi Khánh, Nghi Lộc, Nghệ An  169. Ngô Ngọc Trai, luật sư, Giám đốc công ty luật Công Chính  170. Vũ Quốc Ngữ, Thạc sĩ, người hoạt động nhân quyền, nhà báo độc lập  171. Lê Quang Huy, cựu giáo chức, sinh sống ở Sài Gòn  172. Bắc Phong, nhà thơ, Ontario, Canada  173. Vũ Thạch, kỹ sư, Sài Gòn  174. Trần Đĩnh, hưu trí, tác giả Đèn Cù, sống ở Sài Gòn  175. Phan Tú Quỳnh, giáo viên về hưu, Los Angeles, USA  176. Lê Anh Hoài, nhà văn, Hà Nội  177. Đỗ Ngọc Thống, PGS.TS, Hà Nội  178. Dương Thuấn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa, Hà Nội  179. Phan Hữu Thái Bình, kỹ sư điện, TP. HCM  180. Đặng Quyết Tiến, cựu giảng viên Khoa Ngữ văn trường ĐH SP Thái Nguyên, Thái Nguyên  181. Phạm Xuân Thu, luật gia-doanh nhân, Berlin, CHLB Đức  182. Chu Anh Tuấn, lao động tự do, TP. Vũng Tàu  183. Nguyễn Phượng, giảng viên khoa Ngữ Văn Đại học Sư phạm Hà Nội  184. Nguyễn Phúc Hậu, Sinh viên khoa Văn trường ĐHSP TP. HCM  185. Lê Viết Yên, Sài Gòn  186. Phan Quốc Bình, Nhà thơ, Vinh, Nghệ An  187. Đỗ Hồng Thành, nghiên cứu tự do, Hà Nội  188. Thuỳ Linh, nhà văn, Hà Nội  189. Lê Thanh Huy, chuyên viên tư vấn, Sài Gòn  190. Đỗ Quang Nghĩa, kỹ sư, Đức  191. Tiết Hùng Thái, dịch giả Hiếu Tân, TP Vũng Tàu  192. Nguyễn Xuân Diện, Tiến sĩ, Hà Nội  193. Nguyễn Tâm, kỹ sư Cơ điện, TP. HCM  194. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nhà báo, Hà Nội  195. Phan Thị Châu, nhà báo tự do, TP. HCM  196. Lê Minh Tâm, hưu trí, Trần Thánh Tông, TP Thái Bình  197. Nguyễn Tuấn Khanh, nhân viên văn phòng, Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh  198. Trần Xuân Hoài, lao động tự do, Hà Nội  199. Nguyễn Tấn Phú (Phu Nepal), nhà nghiên cứu Nam Á, Hiện sống tại Nepal  200. Nguyễn Trọng Chức, nhà báo, Q. Bình Thạnh, TP. HCM  201. Mai Văn Rê, kinh doanh, Sài Gòn  202. Nguyễn Chí Thuận, kinh doanh tự do, Đà Nẵng  203.Vũ Minh, phường Hoàng Văn Thụ, TP Thái Nguyên  204. Trịnh Hồng Trang, giáo viên hưu trí, Ba Đình, Hà Nội  205. Nguyễn Văn Đức, Lao động tự do, Q.12, TP. HCM  206. Vinh Anh, CCB, Đống Đa, Hà Nội  207. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, nguyên Q. Tổng Biên tập báo Du Lịch (bị thôi chức năm 2008 do đăng bài báo động TQ chiếm Ải Nam Quan và Biển, đảo), cựu Trưởng Văn phòng NXB Hội Nhà Văn (đã nghỉ hưu)  208. Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, viết báo, dịch thuật, CHLB Đức  209. Lê Xuân Thành, kỹ sư, sống tại Nha Trang, Khánh Hoà  210. Phùng Chí Kiên, Designer, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội  211. Hoàng Nhơn, kinh doanh, Sài Gòn  212. Chu Xuân Hẹ, kinh doanh, Đà Nẵng  213. Nguyễn Ngọc Sơn, bác sĩ nghỉ việc, Long Điền, Bà Rịa Vũng Tàu  214. Nguyễn Thị Bích Hoa, nội trợ, Long Điền, Bà Rịa Vũng Tàu  215. Đỗ Thái Bình, kỹ sư đóng tàu, Phó Chủ tịch Hội Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam, uỷ viên BCH Hội KHKT Biển TP. HCM  216. Tô Oanh, giáo viên nghỉ hưu, TP Bắc Giang  217. Nguyễn Hoài Sơn, kỹ sư điện tử, Sài Gòn  218. Antoine Nguyen Quang Trung, Linh mục, GX Vạn Lộc, Giáo phận Vinh  219. Trần Huy Quang, nhà văn, Nghệ An  220. Lê Văn Lâm, Quảng Bình, làm việc ở Nhật Bản  221. Nghiêm Ngọc Trai, kỹ sư hưu trí, Hà Nội  222. Lê Phước Sinh, dạy học, Sài Gòn  223. Trịnh Đình Hoà, hưu trí, quận Đống Đa, Hà Nội  224. Nguyễn Văn Hải, Blogger Điếu Cày, cựu TNLT, sống tại Hoa Kỳ  225. Trần Thị Giao Phương, Sài Gòn  226. Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo nghỉ hưu, Paris, Pháp  227. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, Sài Gòn  228. Vũ Minh Vương, Đức Giang, Long Biên, Hà Nội  229. Huỳnh Công Thuận, nhà báo tự do, Sài Gòn  230. Trần Thanh Tuấn, giảng viên, trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội  231. Nguyễn Thiện, tác giả chương trình “Dân ta biết sử ta”, TP. HCM  232. Đinh Vạn Vĩnh Phát, kỹ sư CNTT, Sài Gòn  233. Nguyễn Bá Dũng, hưu trí, Hà Nội  234. Nguyễn Viễn, cử nhân Kinh tế, Hà Nội  235. Đinh Tấn Lực, kỹ sư điện lực (đã nghỉ hưu), Quy Nhơn, Bình Định  236. Nguyễn Xuân Độ, cựu chiến binh D 35, F305 tại Quảng Đà, năm 79 tái ngũ chống giặc ở Bình Liêu - Quảng Ninh. Sống tại Hải Dương  237. Trần Đức Thạch, nhà thơ, cựu tù nhân lương tâm, Nghệ An  238. Trương Chí Tâm, cử nhân y khoa, TP. HCM  239. Huỳnh Nhật Hải, hưu trí, Đà Lạt  240. Huỳnh Nhật Tấn, hưu trí, Đà Lạt  241. Thu Phong, nhà văn, Sài Gòn  242. Hoàng Hải Đăng, nghề nghiệp tự do, Q.1, TP. HCM  243. Đỗ Cao Cường, đạo diễn, phóng viên điều tra  244. Nguyễn Trạch Công, lao động tự do, Nghệ An  245. Võ Tiến Dũng, kỹ sư Thiết kế cơ khí, TP. Biên Hòa, Đồng Nai  246. Trần Thị Hường, cán bộ hưu trí, Việt Nam  247. Lê Xuân Diệu, kinh doanh, BMT – Daklak  248. Nguyễn Minh Tân, luật sư, TP. HCM  249. Lê Xuân Hòa, kỹ sư Dầu khí (đã hưu trí), TP. Vũng Tàu, Bà Rịa - Vũng Tàu  250. Phạm Minh Hoàng, hưu trí, Paris, Pháp  251. Phan Đình Thanh, Oldenburg, Cộng hòa Liên bang Đức  252. Lý Thành Đạt, hưu trí  253. Nguyễn Lê Thu Mỹ, hưu trí  254. Nguyễn Huy Đĩnh, hưu trí, Tiền Giang  255. Lê Trọng Hùng, nhà báo độc lập, Hai Bà Trưng, Hà Nội  256. Vi Nhân Ngãi, công nhân, TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh  257. Võ Thị Bích Huyền, hưu trí, TP. HCM  258. Nguyễn Đào Trường, hưu trí, Hải Dương  259. Trần Rạng, nhà giáo, Sài Gòn  260. Nguyễn Hữu Toàn, PGS. TS. BS, Đà Nẵng  261. Nguyễn Chỉnh Huấn, phục vụ tại D126/BTTM-QĐNDVN (thương tật), Bình Chánh  262. Nguyễn Quang Vinh, nguyên Sĩ quan Quân đội nghỉ hưu, Đội Cấn, Hà Nội  263. Hà Văn Thịnh, nguyên giảng viên trường ĐH Khoa học Huế  264. Nguyễn Tường Thụy, nhà báo độc lập, Hà Nội  265. Huỳnh Quang Minh, cử nhân Kinh tế, Quảng Nam  266. Ý Nhi, nhà thơ, Sài Gòn  267. Lê Vinh Quốc, TS Giáo dục, nguyên P. Hiệu trưởng trường ĐH Sư phạm TP. HCM  268. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư Tin học, Genève, Thụy Sĩ  269. Cát Toàn Thắng, kỹ sư Hóa ĐH BK HN, Hà Nội  270. Phạm Nam Hải, Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội  271. Phạm Hoàng Phiệt, nguyên Giáo sư ĐH YD TP. HCM, Q.1, TP. HCM  272. Nguyễn Vũ Hằng, lao động tự do, Đông Anh, Hà Nội  273. Nguyễn Phương Trung, nghỉ hưu, Hà Nội   274. Nguyễn Văn Nghiêm, lao động tự do, Phương Lâm, Hòa Bình  275. Hoàng Thanh Tuấn, kỹ sư xây dựng, Quận 5, Sài Gòn  276. Lê Anh Dũng, Q.10, Saigon  277. Nguyễn Xuân Châu, y tá, USA  278. Trần Thập Nhất, hưu trí, Sài Gòn  279. Lý Quốc Huy, công nhân, xã Viên An, Ngọc Hiển, Cà Mau  280. Trần Hồ Dũng, cựu giáo viên, Tacoma, Washington, USA  281. Lê Hoàng Thanh Thủy, cựu giáo viên, Tacoma, Washington, USA  282. Nguyễn Hoàng Kỳ, kinh doanh tự do, TP Vũng Tàu  283. Hoàng Ngọc Lĩnh, hưu trí, B.C Canada.  284. Hoàng Văn Khẩn, Tiến sĩ sinh hoá, Genève, Thuỵ Sĩ  285. Tri Dân, doanh nhân tự do ở Cộng hoà Séc  286. Đặng Bích Phượng, hưu trí, Hà Nội  287. Trần Thị Hương, Germany  288. Nguyễn Thị Thanh Xuân, giảng viên nghỉ hưu, Sài Gòn  289. Thiếu Khanh, nhà thơ, dịch giả, Sài Gòn  290. Nguyễn Ngọc Huy, nghiên cứu sinh, Nghệ An, đang cư trú: Hoa Kỳ  291. Tương Lai, GS, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học VN, TP. HCM  292. Lê Công Giàu, nguyên Tổng Thư ký Tổng hội Sinh viên Sài Gòn 1966, nguyên Phó Bí thư Thường trực Thành đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 1975, nguyên Phó Tổng Giám đốc Saigon Tourist, Chủ tịch HĐQT Hãng Hàng không Pacific Airline, nguyên Giám đốc Công ty SAVIMEC, FTDC, ITPC  293. Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, Đại biểu Quốc hội Khóa VI, Ủy viên Mặt trận Tổ quốc TP. Hồ Chí Minh, nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh Niên  294. Hoàng Quân, Plano, Texas, Hoa Kỳ  295. Nguyễn Công Trình, công nhân lao động tại Hàn Quốc  296. Hee-Young Olivia Kim, Hàn Quốc  297. Ngô Xuân Thọ, nghề tự do, Hà Nội  298. Đào Thanh Thuỷ, hưu trí, Hà Nội  299. Trần Châu, nông dân Nam Bộ, Sài Gòn  300. Đàm Việt Hùng, kỹ sư cầu đường đã nghỉ hưu, TP. HCM  301. Lê Văn Kiệt, TS Khoa học, Bruxelles (Belgium)  302. Nguyễn Anh Quân, công nhân, Lương Sơn, Hòa Bình  303. Minh Cận, công dân Việt Nam, Đà Nẵng  304. Hồ Thị Liên, hưu trí, P. Thạc Gián, Đà Nẵng  305. Bùi Đức Ngọc, kỹ sư Hoá, hưu trí, TP. Hồ Chí Minh  306. Lê Phú Chương, Cơ sở sản xuất - gia công sản phẩm thêu thời trang, Q.8, Sài Gòn  307. Nguyễn Thị Mười, hưu trí, Sài Gòn  308. Viet Nguyen, ROV, Lafayette, Louisiana, USA  309. Chu Hảo, Viện Phan Châu Trinh, Hội An  310. Đào Thị Ngọc Trâm, giáo viên nghỉ hưu, TP. HCM  311. Trương Minh Tuấn, kinh doanh tự do, Biên Hoà, Đồng Nai  312. Đào Minh Châu, tư vấn Hành chính công và Chính sách công, Hà Nội  313. Lê Minh Đường, hiện sống tại Tp HCM  314. Nguyễn Trọng Cương, Học viện Nông nghiệp Việt Nam  315. Nguyễn Xuân Tùng, Hà Nội  316. Nguyễn Đức Hùng, Cầu Giấy, Hà Nội  317. Nguyễn Đức Long, Giám đốc Cty TNHH Dịch vụ số 2, Hà Nội  318. Vũ Trung Uý, đang sống tại cộng hoà Séc  319. Trần Thanh Cảnh, nhà văn, Hà Nội  320. Vũ Tất Đạt, Làm việc tự do, Tân Định, Q.1, Saigon  321. Nguyễn Thanh Phong, giáo viên, Kon Tum  322. Phạm Tiến Phong, hưu trí, Sài Gòn  323. Nguyễn Nhã, Tiến sĩ Sử học, Sài Gòn   324. Phạm Trọng Nghĩa, công chức, tỉnh Hà Giang  325. Dương Thị Thu Liễu, Giáo xứ Gia Ray, Đồng Nai  326. Nguyễn Văn Hùng, cựu quân nhân, Thanh Hóa  327. Định Văn Dũng, Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình  328. Nguyễn Hữu Hùng, Bố Trạch, Quảng Bình  329. Đinh Nữ, chuyên gia Tâm lý trị liệu, San Jose, California, USA  330. Hoàng Thanh Linh, giảng viên, TP. HCM  331. Nguyễn Văn Hùng, Linh mục Công giáo, Taoyuan, Taiwan  332. Trần Ngọc Tuấn, nhà báo tự do, Praha, CH Czech  333. Phạm Xuân Nguyên, nhà nghiên cứu văn học, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội  334. Trang Châu, nhà văn, Canada  335. Tống văn Công, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động  336. Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà văn, Virginia, Hoa Kỳ  337. Võ Quang Tu, hưu trí, Montreal, Canada  338. Nguyễn Công Thuận, kinh doanh tự do, Pleiku, Gia Lai  339. Nguyễn Hưng, kỹ sư Điện tử, San Jose, California, Hoa Kỳ  340. Vũ Phương Chiến, lao động, Goldenstedt 49424, Germanny  341. Phan Bá Phi, Thạc sĩ IT, hưu trí, Seattle, USA  342. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội  343. Nguyễn Trường Chinh, dân oan, Kim Thành, Hải Dương  344. Phạm Thành, nhà báo - nhà văn, Hà Nội  345. Đặng Hoàng Tú, sinh viên khoa Pháp văn Đại học Sư phạm TP. HCM  346. Nguyễn Tuyết Lan, nội trợ, Nha Trang, Khánh Hòa  347. Nguyễn Thanh Tịnh, kinh doanh tự do, Bình Dương  348. Trần Văn Bình, TS KS, Frankfurt/M, CHLB Đức  349. Nguyễn Hùng, CA, USA  350. Trần Thiên Hương, kỹ sư, Cộng hòa Liên bang Đức  351. Lương Hoàng Bách, Cộng hòa Liên bang Đức  352. Lương Ngọc Minh, Cộng hòa Liên bang Đức  353. Nguyễn Thế Hùng, GS. TS, Đại học Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí VN  354. Vũ Đình Bon, TS, kỹ sư Công chánh, Hoa-kỳ  355. Đinh Văn Hương, bác sỹ Y khoa, Hoa Kỳ  356. Trần Công Khánh, hưu trí, Hải Phòng  357. Đào văn Tùng, hưu trí, Mỹ Tho, Tiền Giang  358. Hoàng Xuân Họa, viết văn tự do, Hà Nội  359. Chu Trí Thành, hưu trí, TP Vinh, Nghệ An  360. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ, Paris, Pháp  361. Hồ Văn Huy, hiện sống ở Angola, quê quán Quỳnh Lưu, Nghệ An   362. Nguyễn Thống, Chủ tịch Hội Bạn yêu ĐÀI TNVN, Yên Dũng, Bắc Giang  363. Tran Quang Tuyet, TS Vật lý, Seattle, USA  364. Nguyễn Kỳ Nam - nhiếp ảnh gia, nhà báo tự do  365. Nguyen Hoang Phiet, kinh doanh tự do, Q.8, TP. HCM  366. Hà Văn Thùy, nhà văn, Sài Gòn  367. Trần Nguyễn Anh Phong, bác sĩ, Q.3, TP. HCM  368. Vũ Văn Học, kỹ sư tàu biển, Q.6, TP. HCM  369. Lê Văn Nhân, tài xế xe tải, Bình Phước  370. Vũ Đình Cúc, công nhân may, Q.7, TP. HCM  371. Lê Văn Giang, buôn bán tự do, Quận Tân Bình, TP. HCM  372. Ngô Thị Bảo Anh, chuyên viên trang điểm, Q.7, TP. HCM  373. Nguyễn Văn Nghệ, làm ruộng, Diên Khánh, Khánh Hòa  374. Lý Gia Thành, giảng viên, Sài Gòn  375. Nguyễn Thành Đô, giáo viên, Gia Lâm, Hà Nội  376. Phạm Quang Hoa, bác sĩ, Đà Lạt  377. Lê Trung Sơn, kinh doanh tự do, Hà Nội  378. Nguyễn Xuân Liên, hưu trí, Hà Nội  379. Võ Đình Vũ Thiên, Nha Trang  380. Nguyễn Hoài Sơn, hưu trí, Nha Trang  381. Trần Văn Phong, cán bộ hưu trí, Nghệ An  382. Trần Công Tâm, hưu trí, Sài Gòn  383. Nguyễn Văn Huỳnh, Nghệ An  384. Bùi Nghệ, hưu trí, cư ngụ ở Sài Gòn  385. Nguyễn Phạm Kim Sơn, nguyên Trưởng Đài viễn thông ICS Đà Nẵng, Đà Nẵng  386. Hồ Hữu Liên, Cam Ranh, Khánh Hòa  387. Võ Ngọc Lục, kinh doanh, làm báo tự do, Buôn Ma Thuột, Daklak  388. Nguyễn Xuân Quy, nghề tự do, Tiền Giang  389. Trần Hưng Thịnh, kỹ sư đã nghỉ hưu, P. Đại Kim, Q. Hoàng Mai, Hà Nội  390. Phan Thị Hoàng Oanh, TS Hoá học, Sài Gòn  391. Hồ Thiếu Vân, nhà giáo nghỉ hưu, Hà Nội  392. Hoàng Đình Sâm, cán bộ về hưu, Hà Nội  393. Nguyên Văn Vỵ, giáo viên nghỉ hưu, Q. Đống Đa, Hà nội  394. Trần Văn Toàn, nghề nghiệp tự do, Trung Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội  395. Đoàn Quang Tuyến, cán bộ hưu trí, Đồng Nai  396. Nguyễn Tiến Hùng, Hòa Khánh Nam, Liên Chiểu, Đà Nẵng  397. Hoàng Vũ, công nhân, Columbia SC, USA  398. Trần Duy Hưng, hưu trí, Tây Hồ, Hà Nội  399. Phan Văn Phong, nghề nghiệp tự do, Hoàn Kiếm, Hà Nội  400. Trần Đức Nguyên, chuyên gia cao cấp hưu trí, Hà Nội  401. Đàm Thị Vân Lan, nhân viên kế toán, TP. HCM  402. Phạm Xuân Thanh, Giám đốc dự án, TP. HCM  403. Nguyễn Phúc Vĩnh Thanh, hưu trí, Temecula California, USA  404. Tina Nguyễn, hưu trí, Temecula California, USA  405. Kevin Phi Nguyễn, Business Owner, Agoura Hills, California, USA  406. Kimmy Hà, Business Owner, Temecula California, USA  407. Jason Nguyễn, Business Owner, Augusta Maine, USA  408. Phan Văn Sáu, hưu trí, Garden Grove CA, USA  409. Linh Nguyễn Nhật Lê, Nails Tech Temecula CA, USA  410. Khương Trần, công nhân Westminster CA, USA  411. Xuân Thuợng Hà, Business Owner Temecula CA, USA,  412. Thùy Dương Nguyễn, Business Owner Agoura Hills CA, USA  413. Khanh Công Lê, hưu trí Santa Ana CA, USA  414. Ngô Văn Phượng, nghỉ hưu, Sài Gòn  415. Phạm Ngọc Sơn, Quận 3, Sài Gòn  416. Vương Kiều, làm thơ - dịch thuật, Sài Gòn  417. Nguyễn Văn Lý, cựu giáo chức & doanh nhân, Đà Nẵng  418. Phan Văn Hiến, PGS. TS, Hà Nội  419. Lê Phước Long, doanh nhân, Quảng Trị  420. Võ Thị Mai Nhung, nhà báo, Đà Nẵng  421. Nguyễn Văn Quỳnh, kỹ sư, Daejeon, Hàn Quốc  422. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy TP Đà Lạt, Lâm Đồng  423. Dương Quốc Huy, cựu chiến binh, Hà Nội  424. Triệu Mây, nhạc sĩ Du ca Việt Nam, Bình Thạnh, Sài Gòn  425. Takemoto Haruki, kỹ sư Cơ khí, Yokohama City, Japan  426. Võ Xuân Tòng, nhà văn, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội  427. Trần Vũ Việt Trung, kỹ sư, TP. Hồ Chí Minh  428. Nguyễn Quốc Bình, KS Xây dựng đã nghỉ hưu, Q.1, TP. Hồ Chí Minh  429. Võ Hồng Ly, nhân viên văn phòng, Q.2, Sài Gòn  430. Matthew Nguyễn, chủ đầu tư, Portland, OR 97218, Hoa Kỳ  431. Cao Lập, hưu trí, California, Hoa Kỳ  432. Nguyễn Thị Trúc Vân, Quận 8, Sài Gòn  433. Nguyễn Thị Lan, kinh doanh, Mộc Châu Sơn La  434. Lê Thùy Phương, giáo viên nghỉ hưu, Kiên Giang  435. Tôn Quang Trí, cán bộ hưu trí, nguyên PGĐ Sở CN TP. HCM  436. Nguyễn Công Bình, hưu trí, Úc Châu  437. Nguyên Ngọc Tiến, Thi sĩ Mưa Sa, Tây Ninh  438. Nguyễn Huy Canh, hưu trí, Hải Phòng   439. Nguyễn Lâm, giáo viên, Sài Gòn  440. Phạm Trung Vinh, facebooker Anh Sáu Kiên Giang, Kiên Giang   441. Trương Dũng, chụp ảnh, Đà Lạt  442. Nguyễn văn Hùng Q.10, Thành phố HCM  443. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội  444. Trần Đức Đôn, lão nông, Hoa Kỳ  445. Nguyễn Hùng Anh, Tiến sỹ, Đại học California, Irvine, Hoa Kỳ  446. Lê Thái Kim Hoàng, nhân viên kinh doanh, Ninh Thuận  447. Huỳnh Thế Phùng, PGS.TS. ĐH Khoa học Huế  448. Nguyễn Khắc Hân, họa sĩ, Canada  449. Hà Thúc Huy, TS Hóa học, Sài Gòn  450. Lê Thị Cẩm, giáo viên về hưu, Sài Gòn  451. Hà Minh Hiển, TS, nguyên Giảng viên ĐH Mỏ-Địa chất Hà Nội, Warszawa, Ba Lan  452. Trần Viết Tuyên, kiến trúc sư, Hamburg, CHLB Đức  453. Phạm Quang Chiểu, Hội USAVSC California (USA Veterans Support Command)  454. Doãn Quốc Khoa, TS. KTS, Hà Nội  455. Phan Tùng Giang, Làm nghề tự do, Budapest, Hungary  456. Bùi Hải Lâm, nghề nghiệp tự do, Bình Định  457. Phạm Quang Vinh, kỹ sư, Quận 7, TP. HCM  458. Bùi Anh Tiền, công nhân, Quảng Ngãi   459. Chu Minh Toàn, Thạc sĩ CNTT, Pháp  460. Trần Thị Tính, công nhân viên, TP. Vũng Tàu  461. Phạm Văn Hiền, chuyên viên phòng Tư liệu, trường Chính trị Tô Hiệu, Hải Phòng  462. Dương Hồng Lam, hưu trí, TP. HCM  463. Phạm Mai Hiền, Hà Nội  464. Bùi Thị Minh Trâm, nội trợ, Q. Gò Vấp, Sài Gòn  465. Đoàn Trần Hiệp. Cad/cam design, Victoria, Australia  466. Hoàng Lê Hiếu, KTS, Đà Nẵng  467. Trần Bình Trọng, hưu trí, NSW, Australia  468. Lê Mạnh Đức, hưu trí, TP. HCM  469. Nguyễn Hiệp, hưu trí, Thừa Thiên Huế  470. Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, Quận 3, TP. HCM  471. Lê Văn Học, cử nhân luật & CEO, Bà Rịa - Vũng Tàu  472. Nguyễn Hồng Hà Nội, công nhân KCN Nhơn Trạch, Đồng Nai  473. Ngo Kim Dung, bác sĩ đã nghỉ hưu, Pháp  474. Nguyễn Ngọc Tú, TS, Đại học James Cook, Úc  475. Lê Văn Oanh kỹ sư XD, Hà Nội  476. Hồ Sỹ Hải, kỹ sư, CCB đã nghỉ hưu ở Nam Từ Liêm, Hà Nội  477. Nguyễn Mai Oanh, Sài Gòn  478. Khổng Hy Thiêm, Suối Tân Cam Lâm, Khánh Hòa   479. Chu Sơn, nhà thơ tự do, Thủ Đức, Sài Gòn  480. Nguyễn Thị Kim Thoa, bác sĩ, Thủ Đức, Sài Gòn  481. Trần văn Hoàng, tư vấn cơ sở dữ liệu, Toronto, Canada  482. Hà Trung Liêm, hưu trí, Omaha, Tiểu bang Nebraska, Hoa Kỳ  483. Đoàn Minh Hùng, thi sĩ tự do, Tuy Hòa  484. Nguyễn Thị Hà, Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh  485. Đặng Hoàng Tú, SV khoa Pháp văn ĐHSP TP. HCM, thành viên tập san văn học Quán Văn  486. Tư Đồ Tuệ, Toronto, Canada  487. Hồ Văn Tích, cán bộ hưu trí, Quận 7, Sài Gòn  488. Đỗ Thị Bắc Giang, kế toán, Sài Gòn  489. Phạm Văn Chính, London, Vương Quốc Anh  490. Anhngoc B. Le, McDonough, Georgia, Hoa Kỳ  491. Ba Bà, Morrow, Georgia, Hoa Kỳ  492. Giáng Vân, nhà thơ, Hà Nội  493. Võ Đình Xứng, Giám đốc công ty TNHH MTV Phú Sơn Đông, Đà Nẵng  494. Nguyễn Thanh Hiệp, công nhân KCN Linh Trung, Thủ Đức  495. Võ Mạnh Hiệp, giáo viên dạy tiếng Anh, Mộ Đức, Quảng Ngãi  496. Ngô Văn Giá, nhà văn, Hà Nội  497. Quảng Tánh Trần Cầm, nhà thơ, USA  498. Nguyễn Tú, Q7, Sài Gòn  499. Nguyễn Minh Tuấn, bác sĩ, Đà Nẵng  500. Phạm Quốc Phong, Cộng hoà Liên bang Đức  501. Ngô Sĩ Phong, luật gia, Thủ Dầu Một, Bình Dương   502. Mai Thanh Sơn, PhD, Viện KHXH vùng Trung bộ  503. Đào Văn Nam, kỹ sư thuỷ lợi, TP. Hồ Chí Minh  504. Phan Trung Kiên, kỹ sư, kinh doanh tự do, Q.8, TP. HCM  505. Vũ Thư Hiên, nhà văn, Paris, France  506. Nguyễn Đăng Khôi, hưu trí, Hoa Kỳ  507. Nguyễn Thị Phương Hòa, dược sĩ   508. Dương Xuân Mức, Thạc sỹ, kỹ sư xây dựng, Đà Nẵng  509. Vũ Ngọc Thăng, Dịch giả, Canada  510. Nguyễn Minh Vũ, nhà giáo đã nghỉ hưu, Yên Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội   511. Nguyễn Văn Đài, luật sư, đang tị nạn chính trị tại CHLB Đức  512. Thanh Nguyen-Brem, TS hóa học đã nghỉ hưu, Đức  513. Doãn Minh Đăng, TS điều khiển tự động, Cộng hòa Liên bang Đức  514. Vũ Thế Cường, TS cơ khí, München, CHLB Đức  515. Nguyễn Thị Hiền, München, CHLB Đức  516. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn-nhà báo, Sài Gòn  517. Vũ Ngọc Yên, nhà báo, Stuttgart, CHLB Đức  518. Trần Văn Thành, kỹ sư thông tin học, ngoại ô Paris, Pháp  519. Phạm Thị Thiên Hương, điều dưỡng tự do, VN  520. Ngụy Hữu Tâm, dịch giả, Hà Nội  521. Lê Trung Tuấn, kỹ sư cơ khí hồi hưu, Filderstadt, Đức  522. Hà Dương Tường, nhà giáo về hưu, Pháp  523. Nguyễn Xuân Lâm, nghề tự do, Nghi Hoa, Nghi Lộc, Nghệ An  524. Nguyễn Nhơn Mai Ly, chuyên viên ngân hàng, Washington, USA  525. Đào Đình Bình, kỹ sư hưu trí, Hà Nội  526. Trần Nhân Chính, kỹ sư tin học, Đồng Nai  527. Đào Thu Huệ, giảng viên ĐH, Hà Nội  528. Nguyễn Phước Long, hưu trí, TP. HCM  529. Nguyễn Văn Hồng, giáo viên nghỉ hưu, Châu Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh  530. Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội xuất ngũ, Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội  531. Lê Ký Thương, Hoạ sĩ, Sài Gòn  532. Lê Mạnh Năm, nghiên cứu viên, Hà Nội  533. La Khắc Hòa, giảng viên đại học đã nghỉ hưu  534. Trương Văn Thương, dạy học, Sài Gòn  535. Nguyễn Thiện Tống, PGS. TS. Kỹ thuật Hàng không, Sài Gòn  536. Trương Thị Minh Sâm, nội trợ, Đồng Nai  537. Nguyễn Thị Nguyệt, nhân viên hưu trí, Đà Lạt, Lâm Đồng  538. Phạm Văn Hào, Bà Rịa-Vũng Tàu  539. Phan Trọng Khang, thương binh 2/4, An Dương, Yên Phụ, Tây Hồ, Hà Nội  540. Đỗ Thị Song Ngân, bác sỹ, Hà Nội  541. Nguyễn Quang Vinh, nông dân, TP. HCM  542. Huỳnh Ngọc Chênh, công dân, Hà Nội   543. Nguyễn Thuý Hạnh, công dân, Hà Nội  544. Lê Thị Thanh Hằng, điều dưỡng viên, TX, Hoa Kỳ  545. Nguyễn Gia Hảo, chuyên gia Tư vấn độc lập, Hà Nội  546. Vân Thảo, nhà văn, quận Cầu Giấy, Hà Nội  547. Nguyễn Quốc Huy, giáo viên, Kỳ Sơn, Hoà Bình  548. Lê Thương, hoạ sĩ, Cộng hoà Hungary  549. Pham Thai Long, kỹ sư, Nha Trang  550. Võ Văn Hiền, nghề tự do, Hà Nội  551. Nguyễn Tuấn Anh, cựu sỹ quan chống Trung Quốc, Việt Trì, Phú Thọ  552. Võ Thị Hảo, nhà văn, CHLB Đức  553. Phạm Hồng Thắm, nhà báo, hưu trí, Hà Nội  554. Nguyễn Như Khuê, kỹ sư, doanh nhân, Sài Gòn  555. Đỗ Hữu Chung, chuyên viên kinh doanh, Quận 8, Sài Gòn  556. Nguyễn Trần Hải, người lao động về hưu, cựu sĩ quan Hải quân NDVN, Hải Phòng  557. Nguyễn Trọng Việt, kỹ sư Thủy lợi đã về hưu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội  558. Nguyễn Mê Linh, TS, hưu trí, TP. HCM  559. Đặng Mai, thợ cơ khí, Quận 4, Sài Gòn  560. Đoàn Phú Hòa, phiên dịch, Cộng hòa Séc  561. Hoàng Thị Lan Anh, nhân viên kỹ thuật công ty Märklin – Stuttgart, CHLB Đức  562. Trịnh Bá Khiêm, dân oan, Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội   563. Cấn Thị Thêu, dân oan, Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội  564. Trịnh Bá Phương, dân oan, Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội  565. Trịnh Bá Tư, dân oan, Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội  567. Lê Thế Tới, nghề nghiệp đầu bếp, Thanh Hóa  568. Nguyễn Khắc Bình, Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh  569. Trần Lương, hoạ sĩ, Hà Nội  570. Trương Lâm, kiến trúc sư, Sài Gòn  571. Hà Văn Chính, hưu trí, Cần Thơ  572. Phạm Gia Khánh, sĩ quan dự bị bộ đội, Cần Thơ  573. Ngô Thị Hồng, dịch giả, Q.8, TP. HCM   574. Lê Minh Lương, kinh doanh tự do, Đak Lak  575. Thiều Bá Linh, buôn bán nông sản, Lạng Sơn  576. Nguyễn Thị Duyên, chuyên viên tài chính, Q. Tân Bình, TP. HCM  577. Nguyễn Thị Di, chuyên viên tài chính, Q. Tân Bình, TP. HCM  578. Đỗ Thị Như Quỳnh, công nhân may, KCX Tân Thuận, Q.7, TP. HCM  579. Lê Nguyễn Phương Anh, công nhân may, KCX Tân Thuận, Q.7, TP. HCM  580. Nguyễn Ngọc Tường Vy, cử nhân luật chuyên viên tư vấn, Nghệ An  581. Đinh Văn Trung, KTS, hoạ sĩ, Hà Nội  582. Hồ Hoàng Anh, hưu trí, Q.12, Sài Gòn  583. Phạm Văn Lộc, công nhân cơ khí, Q.10, TP. HCM  584. Nguyễn Minh Châu, dược sĩ, Vĩnh Long  585. Hà Thanh Huyền, nhà báo, Sài Gòn  586. Vũ Thị Cẩm Tú, nhân viên bán xăng dầu, TDM, Bình Dương  587. Hoàng Văn Chí, tài xế taxi, Q.9, TP. HCM  588. Nông Thị Út, bán hàng online, Q3, TP. HCM  589. Mai Thị Ánh Tuyết, KTV chăm sóc sắc đẹp, Nha Trang  590. Cao Xuân Trường, kinh doanh nhà hàng, Tuy Hoà, Phú Yên  591. Cao Thị Khánh Hà, kinh doanh nhà hàng, Tuy Hoà, Phú Yên  592. Lô Nguyễn Văn Hưng, KTS, Q.9, TP. HCM  593. Võ Bảo Ngọc, hoạ sĩ, Bình Định  594. Nguyễn Kiều Dung, Tiến sỹ Kinh tế, Hà Nội  595. Phêrô Nguyễn Ngọc Thông, Bác sĩ, Bút hiệu Lê Dân Việt, California, Hoa Kỳ  596. Trần Thị Huyền Trang, Thành viên Phong trào Dân Quyền, UK  597. Nguyễn Thị Nga, Hưu trí, Sóc Trăng  598. Phạm Thị Hoàng Nhung, giáo viên, Nam Định  599. Inrasara, nhà văn, nhà nghiên cứu Cham, Sài Gòn  600. Nguyễn Phúc Vĩnh Phước, truyền thông, Sài Gòn  601. Uông Đình Đức, Kỹ sư cơ khí, Q.1, TP. HCM  602. Đặng Thị Long, Giáo viên Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, Khánh Hòa  603. Thích Không Tánh, Hoà thượng, Tăng Đoàn GHPGVNTN  604. Lê Quang Hiển, Chánh thư ký, TM Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo Thuần tuý  605. Nguyễn Hoàng Hoa, Mục sư, Hội Trưởng Giáo hội Cộng đồng LuTheran VN-HK  606. Chu Thị Minh Huệ, Hà Giang  607. Phùng Thế Dũng, Thiết kế, Đồng Tâm, Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc  608. Vũ Linh Huy, MD, Bác sĩ y khoa, Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ  609. Tran Huu Tam, Kỹ sư Điện toán, USA  610. Đặng Văn Sinh, Viết văn, Hải Dương  611. Lam Le, Toronto, Canada  612. Lưu Vân Khương, Kỹ sư, Torino, Italia  613. Nguyễn Thiết Thạch, Lao động tự do, quận Bình Thạnh, TP. HCM  614. Nguyễn Công Thanh, Lao động tự do, Hòa Hưng, Quận 10, Sài Gòn  615. Phạm Văn Quang, TS, giảng viên ĐH, Sài Gòn  616. Nguyễn Quốc Văn, Nhà văn, TP. Hồ Chí Minh  617. Ngô Duy Hoàng, Kỹ sư xây dựng, Hà Nội  618. Lục Minh Thanh, Cử nhân Luật, Quận Bình Thạnh, Sài Gòn  619. Đinh Xuân Dũng, TS YK Sài Gòn, San Jose, USA  620. Lê Thị Cẩm, Giáo viên hưu trí, Sài Gòn  621. Nguyễn Cường, Tư vấn & Môi giới Bất động sản, Praha, Cộng hòa Séc  622. Nguyễn Ngọc Xuân, Xuyên Mộc, Bà Rịa Vũng Tàu  623. Đỗ Tuyết Khanh, Thông dịch viên, Genève, Thuỵ Sĩ  624. Lê Văn Hiệu, Hưu trí, Q.5, TP. HCM  625. Đào Công Hoà, Hưu trí, Ba Đình, Hà Nội  626. Hoàng Thị Như Hoa, Cựu chiến binh, Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội  627. Mai Tú Ân, Nhà văn, Sài Gòn  628. Phạm Văn Nam, CCB, Hà Nội  629. Trần Kim Thanh, Hưu trí, Hà Nội  630. Phạm Sỹ Liệu, Bác sĩ, Melbourne, Australia  631. Bùi Quang Vơm, Kỹ sư, Paris, France  632. Nguyễn Thái Sơn, Cố vấn Viện Địa chính trị Paris, CH Pháp  633. Trần Kim Thập, Giáo chức, Perth, Australia  634. Hà Thị Minh Tuyết, làm nghề nông, Đà Lạt  635. Nguyễn Công Minh, Kinh doanh, Đà Lạt  636. Nguyễn Công Nghĩa, Kinh doanh, Đà Lạt  637. Lê Trưởng, Làm nghề tự do, Đà Lạt  638. Trần Lâm, Bác sĩ, TP. HCM  639. Nguyễn Trọng Nhân, Lithuania, Vilnius, Druskio  640. Nguyễn Thị Kim Anh, Kế toán, KCN Tân Bình, Quận 12, TP. HCM  641. Nguyễn Văn Trường, Hưu trí, Q.3, TP. HCM  642. Lâm Bảo Anh, Chuyên viên Dịch thuật, Q.3, TP. HCM  643. Hà Thế Vinh, Design, Q.3, Sài Gòn  644. Nguyễn Văn Dương, Nhân viên CNTT làm việc tại Q.3, Sài Gòn  645. Nguyễn Văn Châu, Nhân viên CNTT làm việc tại Q.3, Sài Gòn  646. Nguyễn Văn Giang, Nhân viên CNTT làm việc tại Q.3, Sài Gòn  647. Phùng Thị Ngọc Lan, Giáo viên về hưu, Q.12, TP. Hồ Chí Minh  648. Huỳnh Hồ Thảo Nguyên, Nhân viên Tài chính, Q. Tân Bình, TP. HCM  649. Phạm Thị Ngọc Hân, Nhân viên Tài chính, Q. Tân Bình, TP. HCM  650. Lưu Trường Chính, CCB, sinh sống tại Sài Gòn  651. Võ Ngọc Cường, cựu Cán bộ Đoàn, Q.12, TP. HCM  652. Nguyễn Hoài Phương, Nhân viên chuyển phát nhanh, Q.6, TP. Hồ Chí Minh  653. Tạ Thị Hồng Phượng, Buôn bán, Q.4, Sài Gòn  654. Ngô Thị Tường Vy, Dịch thuật công ty, Q.5, TP. Hồ Chí Minh  655. Nguyễn Hoàng Minh Nhật, Nhân viên chuyển phát nhanh, Q.6, TP. Hồ Chí Minh  656. Nguyễn Thị Mỹ Nhung, Nhân viên kinh doanh, KCX Tân Thuận, Q.7, TP. HCM  657. Phạm Văn Triều, Nhân viên kinh doanh, KCX Tân Thuận, Q.7, TP. HCM  658. Nguyễn Thành Trung, Bảo vệ toà nhà, Q.3, TP. HCM  659. Nguyễn Hữu Đức, Hưu trí, Sài Gòn  660. Lê Thị Phượng, Chuyên viên kinh doanh bất động sản, quận Thủ Đức, Sài Gòn  661. Lê Chí Tai, Chuyên viên kinh doanh bất động sản, quận Thủ Đức, Sài Gòn  662. Phạm Tấn Di, Chuyên viên kinh doanh bất động sản, quận Thủ Đức, Sài Gòn  663. Thạch Thị Thảo Nguyên, Chuyên viên kinh doanh bất động sản, quận Thủ Đức, Sài Gòn  664. Văn Kiều Oanh, Chuyên viên kinh doanh bất động sản, quận Thủ Đức, Sài Gòn  665. Nguyễn Thị Ánh Quyên, KTV, Công ty MTV, Q.9, TP. HCM  666. Lê Thị Như Quỳnh, Giáo viên tiểu học, Sài Gòn  667. Hồ Thị Thuý Vy, Lao động tự do, Q.12, TP. HCM  668. Trần Thị Mai Chi, Buôn bán online, Lai Vung, Đồng Tháp  669. Lý Thị Ngọc Hiền, Hưu trí, Q.2, TP. HCM  670. Dương Quốc Vinh, Hưu trí, Q.2, TP. HCM  671. Lê Bích Vân, Quản trị mạng, làm việc tại Q.8, TP. HCM  672. Hồ Chí Tín, Nhân viên kinh doanh viễn thông, Q.5, Sài Gòn  673. Ngô Thành Lâm, Buôn bán nông sản, Lạng Sơn  674. Bùi Thị Hạnh, Buôn bán nông sản, Lạng Sơn  675. Đinh Văn Tuấn, Hưu trí, Huế  676. Trịnh Văn Toàn, Cán bộ Địa chính, Bù Đăng, Bình Phước  677. Nguyễn Công Lý, Hoạ sĩ, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẳng  678. Trần Thị Tuyết Mai, Nghệ nhân gốm, Bình Dương  679. Hoàng Anh Dũng, Tài xế xe tải, Nha Trang  680. Phan Bá Cẩm, Bộ đội xuất ngũ, Thanh Hoá  681. Lê Hữu Doãn Lâm, Kinh doanh điện thoại, Q.11, TP. HCM  682. Trần Thị Cẩm Thu, Nghệ sĩ, Dak Lak  683. Đặng Thị Thanh Lan, Kinh doanh vải, Tân Bình, TP. HCM  684. Nguyễn Hoàng Anh, Cho thuê áo cưới, Q. Thủ Đức, TP. HCM  685. Mai Trúc Lâm, Công nhân cơ khí, Củ Chi, TP. HCM  686. Võ Trần Duy Phong, Công nhân cơ khí, Củ Chi, TP. HCM  687. Nguyễn Chí Tâm, Bán hàng tại siêu thị, Q.12, TP. HCM  688. Nguyễn Thị Yến Ngọc, Bán hàng tại siêu thị, Q.12, TP. HCM  689. Lê Hữu Hồng Lan, Bán hàng tại siêu thị, Q.12, TP. HCM  690. Lương Thị Trang, Nội trợ, TDM, Bình Dương  691. Triệu Thị Xuân, Hưu trí, Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh  692. Huỳnh Văn Thanh, Giáo viên tiếng anh, Q.8, TP. HCM  693. Lê Thị Thảo Trang, Viết văn, Quận Thủ Đức, Sài Gòn  694. Nguyễn Thị Ngọc Bích, Kinh doanh tự do, Lái Thiêu, Bình Dương  695. Lê Văn Bích, Sĩ quan quân đội về hưu, Bàu Bàng, Bình Dương  696. Đặng văn Thanh, Kansai, Nhật Bản  697. Đoàn viết Hiệp, Kỹ sư hưu trí, Antony, Pháp  698. Vũ Đức Trinh, TSKS Hóa về hưu, Lausanne, Thụy Sĩ  699. Lê Đình Hồng, Kế toán, Vancouver, B.C, Canada  700. Nguyễn Trọng Hùng, Hưu trí, CCB, P. Đông Vệ, Thanh Hóa  701. Bùi Hồng Mạnh, Cử nhân HH, CCB 79, Blogger, Biên khảo tự do, TP Muních, CHLB Đức  702. Nguyễn Đắc Thắng, Kỹ sư hoá học, Genève, Thụy Sỹ  703. Cao Minh Đức, Thợ xây dựng ở tại Loeningen, CHLB Đức  704. Nguyễn Thị Diên, Thợ xây dựng ở tại Loeningen, CHLB Đức  705. Văn Công Hùng, Nhà thơ-nhà báo, VN  706. Ngô Chí Bình, Buôn bán tự do, Sài Gòn  707. Lý Trung Tín, Chủ nhiệm Tạp chí Dân Văn  708 Lê Kim Song, TS, Đại diện khối 8406 Úc châu  709. Trần Văn Lành, Tam Hiệp, Biên Hoà, Đồng Nai  710. Thích Hạnh Thức, Đức quốc  711. Vu Van Chu, Kỹ sư Cơ khí, Toronto, Canada  712. Trần Duy Mộng, Tài xế xe tải đường dài, Q.2, Sài Gòn  713. Nguyễn Văn Thành, Tài xế xe tải đường dài, Q.2, Sài Gòn  714. Ngô Nguyễn Hoài Giang, Quản lý taxi Mai Linh, Q.5, TP. HCM   715. Lê Thị Ngâu, Hoạt động tình nguyện PCP, Q.12, TP. HCM  716. Nông Thị Xuân Lam, Buôn bán tự do, Q.1, TP. HCM   717. Lê Đình Hải, Kỹ sư Hoá học, Q.3, TP. HCM  718. Hoàng Thị Tuyết, Kế toán công ty, Hóc Môn, TP. HCM  719. Võ Văn Nhân, Chuyên viên pháp lý, Quận Tân Bình, TP. HCM  720. Phùng Thị Tuyết Lành, Chuyên viên pháp lý, Quận Tân Bình, TP. HCM  721. Nguyễn Lâm Bảo Anh, Chuyên viên pháp lý, Quận Tân Bình, TP. HCM  722. Cao Thị Thu Lan, Hưu trí, Q.12, TP. HCM  723. Trần Nguyễn Ánh Hồng, Buôn bán chợ đầu mối, Hóc Môn, TP. HCM  724. Lê Văn Giáp, Buôn bán chợ đầu mối, Hóc Môn, TP. HCM  725. Giáp Bình Nguyên, Nhân viên xây dựng, Q.12, TP. HCM  726. Đỗ Thị Cẩm Nhung, Nhân viên chấm công công trường, Tây Ninh  727. Đỗ Văn Nam, Quản lý công trường, Q.12, TP. HCM  728. Nguyễn Cao Nam, Nhân viên IT, Q.9, TP. HCM  729. Trần Văn Diệu, Nhân viên IT, Q.9, TP. HCM  730. Lý Thị Bình, Kỹ sư môi trường, Q.12, TP. HCM  731. Trần Thị Thiên Hương, Nhân viên tư vấn tại CVPMQT, Q.12, TP. HCM  732. Cao Thị Út, Nhân viên tư vấn tại CVPMQT, Q.12, TP. HCM  733. Nguyễn Thị Duyên, Hưu trí, Q.9, Sài Gòn  734. Bùi Văn Chính, Giáo viên Sử về hưu, Q.5, TP. HCM  735. Bùi Quang Cát Tường, Nhân viên kinh doanh BĐS, Đồng Nai  736. Lương Thị Lý, Nhân viên kinh doanh BĐS, Đồng Nai  737. Đỗ Thị Việt Nga, Công nhân may, KCN Trảng Bàng, Tây Ninh  738. Đồng Văn Trí, Công nhân may, KCN Trảng Bàng, Tây Ninh  739. Phạm Gia Hồ, Công nhân may, KCN Trảng Bàng, Tây Ninh  740. Đào Công Tâm, Công nhân may, KCN Trảng Bàng, Tây Ninh  741. Bùi Thị Ngọc Tâm, Bác sĩ về hưu, Pháp  742. Nguyễn Sĩ Sáng, Quản lý website, Q. Bình Tân, TP. HCM  743. Nguyễn Văn Thịnh, Buôn bán tự do, Q.10, TP. HCM  744. Nguyễn Thị Tình, Buôn bán tự do, Q.10, TP. HCM   745. Lâm Thị Ngân, Nhân viên siêu thị, CHLB Đức  746. Lâm Thị Thuý, Nhân viên siêu thị, CHLB Đức  747. Lê Xuân Khoa, nguyên GS thỉnh giảng Đại học Johns Hopkins, Washington DC, USA  748. Nguyễn Thanh Hà, Đại diện Họp Mặt Dân Chủ, California, USA  749. Nguyễn Thị Bé Nhung, Buôn bán sỉ lẻ quần áo, Q. Tân Bình, TP. HCM  750. Hoàng Thị Ngọc Hoàn, Buôn bán sỉ lẻ quần áo, Q. Tân Bình, TP. HCM  751. Mai Thị Thủy Tiên, Buôn bán sỉ lẻ quần áo, Q. Tân Bình, TP. HCM  752. Lê Thị Mỹ Hạnh, Nhân viên siêu thị, CHLB Đức  753. Nguyễn Thị Thanh Mai, Nhà thơ, Hà Nội  754. Phạm Thị Hà Ly, Hưu trí, Sài Gòn  755. Nguyễn Văn Nhàn, Cán bộ hưu trí, Q.9, TP. HCM  756. Nguyễn Nữ Ngọc Mai, Kinh doanh vận tải, Hà Tĩnh  757. Nguyễn Hà, Nghệ sĩ, Phú Yên   758. Nguyễn Văn Ái, Công nhân, Tiền Giang  759. Âu Dương Hồng Hạnh, Hưu trí, An Giang  760. Hồ Thị Bạch Lan, Hưu trí, An Giang  761. Đoàn Văn Chín, Cán bộ địa chính, An Giang  762. Nguyễn Văn Trường, Tài xế xe tải, Q.2, TP. HCM  763. Lê Đức Anh, Cán bộ hưu trí, Hà Tĩnh  764. Bùi Văn Tâm, Tài xế công nghệ, Q.12, TP. HCM  765. Hồ Văn Đức, Tài xế công nghệ, Q.12, TP. HCM  766. Nguyễn Hữu Hoàng, Tài xế công nghệ, Q.12, TP. HCM  767. Cao Thị Bé, Nhân viên chăm sóc sắc đẹp, Q.1, TP. HCM  768. Nguyễn Hữu Trí, Kinh doanh nhà hàng, Quy Nhơn  769. Dương Thanh Nhàn, Làm việc tự do, TP. HCM  770. Phạm Ngọc Nhi, Du học sinh, Osaka, Nhật Bản  771. Phạm Gia Nhi, Du học sinh, Osaka, Nhật Bản  772. Đặng Trần Luân, Kỹ sư hóa học, Cần Thơ  773. Phan Văn Bằng, Nhân viên kinh doanh thiết bị y tế, Bình Tân, Sài Gòn  774. Phan Xuân Thạch, Nhân viên kinh doanh thiết bị y tế, Bình Tân, Sài Gòn  775. Bùi Công Tắc, Kỹ sư dầu khí, Vũng Tàu  776. Thái Văn Luân, Công nhân, Vsip, Bình Dương  777. Trần Thị Như Vũ, Công nhân, Vsip, Bình Dương  778. Bùi Thái Doãn, Công nhân, Vsip, Bình Dương  779. Vũ Thị Nguyệt Cầm, Hưu trí, Long An  780. Nguyễn Hà My, Kinh doanh trà sữa, Q.3, TP. HCM  781. Nguyễn Thị Ý Nhân, Nghệ sĩ cải lương, Hóc Môn, Sài Gòn  782. Bế Văn Nhu, Buôn bán, Q. Tân Bình, TP. HCM  783. Nguyễn Anh Khoa, Dạy lái xe oto, Q. Tân Phú, TP. HCM  784. Nguyễn Sơn Lâm, Dạy lái xe oto, Q. Tân Phú, TP. HCM  785. Vũ Trọng Dân, Dạy lái xe oto, Q. Tân Phú, TP. HCM  786. Hoàng Đức, Nghiên cứu địa chất, sống tại Sài Gòn  787. Ngô Văn Sĩ, Bác sĩ thú y, Q.4, TP. HCM  788. Trần Gia Hân, Nghệ sĩ violon, Bình Thuận  789. Phan Thị An Đào, Kinh doanh quán ăn, Quảng Bình  790. Vũ Thị Huế, Buôn bán, Quảng Nam  791. Nguyễn Thị Phương Mai, Kế toán, Q.12, TP. HCM  792. Ngô Văn Beo, Giảng viên đại học, Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh  793. Nguyễn Đình Phong, Hưu trí, Bình Phước  794. Nguyễn Thị Cát Tường, Giáo viên về hưu, Bình Phước  795. Nguyễn Vũ Quỳnh Hoa, IT, Edmonton, Canada  796. Đỗ Thị Bích Hồng, Nhân viên kế toán tự do, Vũng Tàu  797. Lê Nguyễn Khả Nhi, Luật gia, Q.8, TP. HCM  798. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Luật gia, Q.8, TP. HCM  799. Đinh Van Trí, Buôn bán thủy sản, Bà Rịa - Vũng Tàu  800. Đồng Văn Giáp, Buôn bán thủy sản, Bà Rịa - Vũng Tàu  801. Lý Thị Thục Quyên, Buôn bán thủy sản, Bà Rịa - Vũng Tàu  802. Đoàn Văn Tình, Buôn bán quần áo, Hà Nội  803. Châu Văn Chí, Buôn bán quần áo, Hà Nội  804. Chu Hoàng Nhật, Du học sinh, Nhật Bản  805. Triệu Văn Long, Du học sinh, Nhật Bản  806. Bạch Thị Tuyết Nga, Lễ tân tòa nhà, Q.4, TP. HCM  807. Nguyễn Thị Hồng Nhân, Giáo viên tiểu học, Q.12, TP. Hồ Chí Minh  808. Nguyễn Thị Thu Hương, Giáo viên tiểu học, Q.12, TP. Hồ Chí Minh  809. Đào Văn Chiến, KTS, Q.2, TP. Hồ Chí Minh  810. Lê Thị Bạch Tuyết, Du học sinh, Seoul, Hàn Quốc  811. Lê Đình Nam, Du học sinh, Seoul, Hàn Quốc  812. Nghiêm Thiên Ân, Kỹ sư lập trình phần mềm, Cai Lậy, Tiền Giang  813. Ngô Bá Lộc, Hưu trí, Kiên Giang  814. Nguyễn Chí Tính, Tài xế xe taxi, Q.8, TP. Hồ Chí Minh  815. Lâm Thị Tuyết Lành, Cán bộ hưu trí, Vĩnh Phúc  816. Vũ Thị Bảo Anh, Nhân viên xuất nhập khẩu, Q.3, TP. HCM  817. Vũ Văn Chí, Nhân viên xuất nhập khẩu, Q.3, TP. HCM  818. Lâm Hạ My, Cán bộ hưu trí, Q.12, TP. HCM  819. Nguyễn Thị Hòa, Kế toán công ty, Q.14, TP. HCM  820. Nguyễn Hoàng Mộng Trân, Nhà văn, Sài Gòn  821. Nguyễn Thị Thanh Bình, Kinh doanh tự do, Q. Tân Bình, TP. HCM  822. Đỗ Thị Ngọc Son, Nhân viên công chứng quận nghỉ hưu, Q.8, TP. HCM  823. Triệu Văn Nhân, Hưu trí, Buôn Hồ, Dak Lak  824. Hoàng Thị Thùy Nhi, Dược sĩ, Ontario, Canada  825. Hoàng Gia Bảo, Dược sĩ, Ontario, Canada  826. Vương Gia Lâm, KTV, Lái Thiêu, Bình Dương  827. Nghiêm Thiên Nhân, Kỹ sư công nghệ thông tin, Đà Nẵng  828. Khương Việt Hà, Nghiên cứu văn học, Hà Nội  829. Nguyễn Văn Trần, Nghỉ hưu, Paris, Pháp  830. Tạ Quang Nhi, Nội trợ, Genève, Thụy Sỹ  831. Ho Van Dinh, Missouri, Hoa Ky  832. Phạm Hồng Khoát, Sinh viên, Sài Gòn  833. Nguyễn Văn Kết, Hưu trí, Phú Nhuận, TP. HCM  834. Nguyễn Sỹ Kiệt, Cán bộ ngành Dầu khí, hưu trí tại TP. HCM  835. Lê Khánh Hùng, TS Công nghệ Thông tin, Hà Nội  836. Nguyễn Hữu Thao, CCB, Việt kiều ở Bulgaria  837. Vũ Chí Dũng, Kỹ sư, sống tại Hà nội  838. Cao Thế Phong, Kỹ sư CNTT, Hà Nội  839. Đào Việt Dũng, CCB quận Hai Bà Trưng, Hà Nội  840. Nguyễn Thanh Nguyện, Hưu trí, TP. Vũng Tàu  841. Nguyễn Hồng Tiến, Kỹ sư máy tính, Sài Gòn  842. Nguyễn Tiến Dũng, Chụp ảnh dạo, Vinh, Nghệ An  843. Nguyễn Đức Quỳ, cựu Giáo chức, Hà Nội  844. Trương Đức Dũng, Nghề tự do, Biên Hòa, Đồng Nai  845. Alexander Nguyễn, Chuyên viên kỹ thuật, Brampton, Ontario, Canada  846. Dương Canh Dần, Kỹ sư Viễn thông, Melbourne, Australia  847. Trần Quốc Túy, Kỹ sư hóa, đã nghỉ hưu, Hà Nội  848. Đạt Nguyễn, Hưu trí, sống tại North Carolina, USA  849. Hồ Văn Tiến, Kỹ sư phần mềm, Genève, Thụy Sỹ  850. Chu Trí Thành, Cán bộ hưu trí, Cựu chiến binh Trường Sa 1988, Vinh, Nghệ An  851. Lê Hải, Nhà báo, Nhà nhiếp ảnh, Đà Nẵng  852. Lê Minh Hiền, Stanton, California, Hoa Kỳ  853. Hoàng Ngọc Châu, Hưu trí, Q. Tây Hồ, Hà Nội  854. Nguyễn Hải Sơn, Công nhân, CHLB Đức  855. Phạm Duy Ba, Công ty In và Quảng cáo 270 Thuỵ Khuê, Tây Hồ, Hà Nội   856. Cung Chính Trực, Q. Tân bình, TP. HCM  857. Nghiêm Sĩ Cường, Cử nhân, Kinh doanh, Hà Nội  858. Trần Long Vĩnh, cựu Giáo viên, New Jersey, USA  859. Lê Anh Dũng, Giáo viên, Nha Trang  860. Thái Văn Dậu, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  861. Thái Văn Thiện, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  862. Thái Văn Bì, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  863. Thái Thị Hò, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  864. Phan Thị Lập, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  865. Nguyễn Văn Danh, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  866. Lê Văn Việt, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  867. Huỳnh Văn Nghiệp, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  868. Nguyễn Văn Giới, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  869. Nguyễn Thị Rẽ, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  870. Nguyễn Thị Bân, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  871. Nguyễn Thị Bẩn, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  872. Nguyễn Ngọc Thạch, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  873. Nguyễn Ngọc Trì, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  874. Võ Văn Tấn, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  875. Võ Thị Thu, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  876. Bùi Thị Nhung, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  877. Lê Thị Muôn, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  878. Ngô Thị Tẻo, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  879. Nguyễn Đức Duy, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  880. Nguyễn Thị Cưng, Dân oan Khu liên hợp Bình Dương  881. Vũ Văn Nghĩa, Làm việc tự do, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk  882. Đặng Chí Dũng, Kỹ thuật viên hàng hải, Hoàng Mai, Hà Nội  883. Phan Cao Thiện, Lao động tự do, Quảng Phương, Quảng Trạch, Quảng Bình  884. Mai Khắc Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội  885. Nguyễn Thị Kim Liên, TP. Hồ Chí Minh  886. Joe Tran, Tucson, Arizona, USA  887. Kinh Nguyen, Nghỉ hưu, Bartow BLVD, Fort Myers Florida USA   888. Ngô Tấn Lắm, Kỹ sư CNTT, Phú Yên  889. Tạ Thị Hoài An, Viện Toán học, Hoàng Quốc Việt, Hà Nội  890. Anh Huỳnh, Đặc san Gọi Đàn, Westminster, CA, USA   891. Lê Thị Phương Mai, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội  892. Hồ Vĩnh Trực, KTV vi tính, Sài Gòn  893. Trương Công Quốc Túy, KD, Tân Bình, TP. HCM  894. Nguyễn Quang Vinh, CCB, Nghệ An  895. Nguyễn Hữu Tiến, San Francisco, USA  896. Hoàng Xuân Cảnh, Kế toán, Đông Hà, Đông Hưng, Thái Bình  897. Tô Xuân Thành, cựu quân nhân Hải quân nhân dân Việt Nam, Vinh, Nghệ An  898. Lê Trung Tĩnh, Kỹ sư, Vương quốc Anh  899. Trần Thị Thảo, Giáo viên nghỉ hưu, Hà Nội  900. Ngô Minh, Dựng phim, Boston, MA, USA  901. Phạm Minh Đức, Kỹ sư cơ khí, Hà Nội  902. Nguyễn Lê Tuấn, Kiến trúc sư, Lausanne, Thụy Sĩ  903. Lê Thị Sáu, Công nhân, Lausanne, Thụy Sĩ  904. Nguyễn Thị Kim Hồng, Kế toán (hưu trí), Lausanne, Thụy Sĩ  905. Phạm Đức Nguyên, PGS. TS, Hà Nội  906. Nguyễn Đình Dũng, Giáo viên, Hà Nội  907. Nguyễn Văn Luân, Buôn bán tự do, Thạch Long, Thạch Hà, Hà Tĩnh  908. Lương Ngọc Tuấn, Nghề nghiệp tự do, Q.3, TP. HCM  909. Nguyễn Thành Vũ, Sài Gòn  910. Đàm Ngọc Tuyên, Nhà báo độc lập, Quảng Ngãi  911. Nguyễn Văn Chương, Công nhân, Nghĩa Hưng, Nam Đinh  912. Thái Quang Sa, Bộ đội nghỉ hưu, kĩ sư, Hà Nội  913. Peter Trần Hữu Tam, Kỹ sư điện toán, Hoa Kỳ  914. Nguyễn Lê Phú, Nghề tự do, Saigon  915. Nguyễn Năng Toàn, Nghề tự do, Quận Thanh Xuân, Hà Nội  916. Vũ Mạnh Cường, Thợ may, quận Bình Thạnh, TP. HCM  917. Phan Anh Khoa, Kỹ sư Cơ điện, Q.11, TP. HCM  918. Nguyễn Thành Tuân, Nghề nghiệp tự do, Việt Nam  919. Lê Đỗ Minh Trí, Nhân viên văn phòng, Thủ Đức, Sài Gòn  920. Ngô Chúc Khánh, Công nhân, Hector St, Bass Hill NSW 2197 Australia  921. Nguyễn Văn Thủy, Lái xe, Hà Bắc  922. Phạm Xuân Hồng, Kỹ sư tin học, Q.1, TP. HCM  923. Trần Thị Hồng Mai, Công nhân, Thủ Đức  924. Nguyễn Minh Nhựt, Lập trình viên, Sài Gòn  925. Nguyễn Tiến Đạt, Kinh doanh, quận Phú Nhuận, Sài Gòn   926. Phạm Phú Ngọc, Bảo vệ ở quận Tân Phú, Sài Gòn  927. Lê Thị Lam, Sinh viên, Bình Dương  928. Lê Minh Dũng, Kinh doanh, Cà Mau  929. Trần Phúc Hoạt, Nhân viên, Hải Dương  930. Vũ Đức Dũng, Hưu trí, TP. HCM  931. Đặng Đăng Phước, Giáo viên, Đăk Lăk  932. Đặng Ngọc Quang, Nghiên cứu viên độc lập, Xã Đàn, Đống Đa, Hà Nội  933. Mai Nghiem, Chuyên ngành Sinh học và Giáo dục, Canada  934. Bùi Thị Sự, Nhà báo độc lập của Đài phát thanh EVA -TV- Việt Nam, Thánh Hóa  935. Nguyễn Thị Tri, Nhà báo độc lập của Kênh truyền hình EVA TV Việt Nam, Đồng Nai  936. Nguyễn Thị Kim Chi, Nhà báo độc lập của Kênh truyền hình EVA TV Kênh 1, Long An 937. Phạm Hồng Thơm, Nhà báo độc lập, Kênh truyền hình EVA TV Việt Nam, Quảng Ninh  938. Cát Linh, Nhà báo độc lập, Đài truyền hình CHTV  939. Lê Dũng Vova, Nhà báo độc lập, Đài truyền hình CHTV, Hà Đông, Hà Nội  940. Anton Tuấn (Vũ Manh Tuấn), Nhà báo độc lập, Đài truyền hình CHTV  941. Phillip Phan, Kỹ sư, Riverside, California, Hoa Kỳ  942. Nguyễn Quốc Khải, Nhà báo, cộng tác với VOA và BBC, Virginia, Hoa Kỳ  943. Lý Minh Phong, Lucienne Auquier, Pháp  944. Truong Cong Quoc Tuy, Nguyễn Hồng Đào, Tân Bình, TP. HCM  945. Nguyễn Phi, Long Khánh, Đồng Nai.    
......

Cháy nhà ra mặt chuột

NhanHoa’s blog – RFA| Ngày 20/7/2019, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chính thức lên tiếng trước các tường thuật rộ lên từ thượng tuần tháng 7 đến nay về việc Trung Quốc can thiệp một cách vô luân vô pháp vào hoạt động dầu khí của Việt Nam tại Bỉển Đông, bao gồm cả các hoạt động thăm dò, khai thác mà Việt Nam đã tiến hành từ lâu nay. “Rats desert a falling house” có lẽ chưa hẳn là cách chuyển ngữ chuẩn nhất theo nghĩa bóng đối với thành ngữ “cháy nhà ra mặt chuột”. Nhưng ở đây không bàn về câu chuyện diễn ngôn (discourse), status này chỉ đề cập đến Tuyên bố chắc nịch của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cuối tuần qua, khi Mỹ đòi Trung Quốc phải dừng ngay thái độ bắt nạt nước khác trên Biển Đông. Gián tiếp ủng hộ vấn đề chủ quyền của Việt Nam, Washington phê phán Bắc Kinh: “Các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhắm vào hoạt động dầu khí ngoài khơi của các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông đang đe dọa tới an ninh năng lượng khu vực, đồng thời làm suy yếu thị trường năng lượng tự do và cởi mở tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Tuyên bố kịp thời của Bộ Ngoại giao Mỹ cũng nói rằng việc Trung Quốc gia tăng áp lực lên các nước ASEAN nhằm hạn chế quyền của các nước này đối với việc hợp tác với các bên thứ ba, cho thấy Bắc Kinh đang muốn xác quyết quyền kiểm soát của mình đối với hầu hết các nguồn trữ liệu dầu khí tại Biển Đông. Với Tuyên bố đầu tiên và cho đến nay là duy nhất từ The State Department, Hoa Kỳ đã phê phán những chiều kích chống lại pháp lý và luật quốc tế, đồng thời vạch rõ các hoạt động che giấu dã tâm bành trướng của Bắc Kinh. Bởi vì, “đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên”. Chính bà Thu Hằng, phát ngôn viên của Hà Nội cuối cùng cũng buộc phải công khai cái lập trường tù mù, sau khi “vòng vo tam quốc” trong một tuyên bố “thừa lời mà thiếu ý chí” trước đấy mấy ngày. Theo phán quyết của Toà Trọng tài quốc tế, phụ lục VII của vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc, Toà đã khẳng định Trung Quốc không có quyền lịch sử tại Biển Đông và quan trọng nhất, các thực thể tại quần đảo Trường Sa không thể có các vùng biển rộng hơn 12 hải lý xung quanh, hay thậm chí không có việc cả quần đảo Trường Sa tạo ra một vùng biển rộng lớn xung quanh nó. Vị trí Trung Quốc cho tàu có vũ trang hạng nặng quần thảo với các tàu cảnh sát biển của Việt Nam lâu nay quyết không thể là vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa mở rộng của Trung Quốc chồng lấn lên của Việt Nam. Do đó, nếu Trung Quốc cho rằng khu vực này nằm trong vùng thuộc quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán của Trung Quốc từ các thực thể tại Trường Sa, thì đây là một lập luận hoàn toàn không có cơ sở trong luật quốc tế. Thế mà hôm 17/7, giữa thanh thiên bạch nhật, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã trâng tráo đe doạ Việt Nam. “Chúng tôi hy vọng phía Việt Nam thực sự tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc tại các vùng biển có liên quan và không có những hành động làm phức tạp tình hình,” ông Cảnh Sảng nói tại cuộc họp báo định kỳ ở Bắc Kinh. Tương tự, trước đây mấy năm, vào tháng 7/2017, một dự án dầu khí quan trọng khác của Việt Nam ở Biển Đông, trong đó công ty Repsol (từ Tây Ban Nha) là đối tác, buộc phải ngưng bỏ. Tin thời ấy cho hay, giới lãnh đạo Repsol khi đó được Hà Nội thông báo, Trung Quốc đã đe dọa sẽ tấn công các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa nếu không dừng việc khoan thăm dò. Còn vừa rồi thì sao? Mãi cho tới hôm 19/7/2019, chính quyền Việt Nam mới chính thức cáo buộc tàu thăm dò khảo sát của Trung Quốc cùng các tàu hộ tống đã vi phạm chủ quyền với việc tiến vào vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa ở phía nam Biển Đông. Giả sử không có Tuyên bố ngang ngược của Bắc Kinh, liệu Hà Nội đã dám công khai kêu cứu, sau khi, theo nếp truyền thống “bị bóng đè” từ xưa tới nay, thực hiện chính sách “hèn với giặc, ác với dân”. Quỵ luỵ, chửi đổng Bắc Kinh, nhưng tuyệt đối không cho dân mở miệng, với một lý sự cùn, “đã có đảng và nhà nước lo”. Một ngày sau khi Hà Nội cầu cứu, Washington lập tức lên tiếng. Ở đây chưa hẳn đã là “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”. Bộ Ngoại giao Mỹ “giữa đường thấy sự bất bình mà tha” hẳn phải là vì “Nước Mỹ trước tiên” (lời của Trump). Nhưng rõ ràng sự cộng hưởng lợi ích hiện nay giữa cuộc đấu “bất cân xứng” Hà Nội – Bắc Kinh với tầm nhìn Indo-Pacific của Washington là một cơ hội kim cương cho Việt Nam. Nhưng “thời gian và thuỷ triều lại không chờ đợi ai”. Liệu Việt Nam còn “lửng lờ con cá vàng” đến bao giờ, theo kiểu của tướng Vịnh. “Chúng ta đấu tranh bảo vệ chủ quyền, bảo vệ môi trường hòa bình và lợi ích chung của Biển Đông với cộng đồng quốc tế”. Than ôi, “cỏ nào đến miệng voi”, cộng đồng quốc tế nào đến với Việt Nam mà ông tướng ba hoa này “há miệng chờ sung” hoài vậy? Người Việt từ xa xưa đã mượn hình ảnh con chuột và sự cố hoả hoạn để nói về những kẻ xấu xa trong cộng đồng thường ẩn mình không lộ diện. Chỉ khi gặp nguy nan chúng ta mới biết được, thứ nhất, bộ mặt thật của những những kẻ hiểm ác và thứ hai, ai là người vì mình đã “mang ô đến khi trời mưa” (Friend in deed is a friend in need). Chân lý giản dị này khi nào mới được giới lãnh đạo Hà Nội “ngộ” ra? NhanHoa’s blog  
......

Báo The Guardian: Ông Châu Văn Khảm bị nhà cầm quyền CSVN không cho gặp luật sư biện hộ

Van Kham Chau was arrested in Ho Chi Minh City in January for allegedly trying to overthrow the state and for entering the country on false documents. Photograph Hannah Ellis-Petersen - The Guardian - The Guardian Ông Châu Văn Khảm đã bị giam giữ 6 tháng qua và bị từ chối không cho gặp luật sư để biện hộ. Phát ngôn nhân của Hội Ân Xá Quốc Tế cho biết “Trường hợp của ông Khảm cho thấy sự vô lý của hệ thống pháp luật của Việt Nam, khi bị cáo buộc vi phạm an ninh quốc gia thì ngay cả việc được luật sự biện hộ cũng không được có. Bất cứ ai cũng có quyền được xét xử công bằng và được quyền biện hộ thoả đáng.” Sau đây là bản dịch Việt ngữ của bài báo từ The Guardian *** QUAN NGẠI CHO SỐ PHẬN CỦA CÔNG DÂN ÚC BỊ GIAM CẦM KHÔNG XÉT XỬ Ở VIỆT NAM Ông Châu Văn Khảm, 70 tuổi, bị cáo buộc tội làm phản, đã bị giam giữ 6 tháng và không được phép có luật sư biện hộ. Bài viết của Hannah Ellis-Petersen, The Guardian Các tổ chức nhân quyền và thân nhân ông Khảm đã bày tỏ sự quan ngại về tình trạng của ông, một công dân Úc tuổi 70, đã bị giam giữ 6 tháng nay tại Việt Nam dù chưa bị buộc tội danh nào. Ông Khảm, vượt biên từ Việt Nam đến Sydney vào thập niên 1980, bị bắt giữ tại TP.HCM vào tháng Giêng, bị cáo buộc dùng giấy tờ giả để vào Việt Nam để “âm mưu lật đổ chính quyền.” Gia đình ông Khảm và Hội Ân Xá Quốc Tế xác nhận là ông đã bị từ chối không được có luật sư biện hộ trong tiến trình điều tra, vì vậy thông tin về hoàn cảnh của ông rất giới hạn. Tuy nhiên, cáo buộc tội làm phản mà ông đang bị điều tra có thể dẫn đến án tù 20 năm, thậm chí tử hình. Ông Khảm là một đảng viên đảng Việt Tân, một tổ chức tranh đấu cho dân chủ bị nhà nước Việt Nam gán cho nhãn hiệu khủng bố, và các thành viên thường bị bắt giữ khi đặt chân đến Việt Nam (nếu bị phát hiện). “Trường hợp của ông Khảm cho thấy sự vô lý của hệ thống pháp luật của Việt Nam, khi bị cáo buộc vi phạm an ninh quốc gia thì ngay cả việc được luật sự biện hộ cũng không được có,” một phát ngôn viên của Hội Ân Xá Quốc Tế cho biết. “Bất cứ ai cũng có quyền được xét xử công bằng và được quyền biện hộ thoả đáng.” Theo vợ ông là bà Trang, và con trai Daniel, ông Khảm đã bị bắt khi đang tiếp xúc với một thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ, một tổ chức tranh đấu cho dân chủ khác, tại TP Hồ Chí Minh và bị tống giam. Họ chưa được phép thăm viếng ông Khảm trong tù, thay vào đó chỉ được chuyển thư từ qua ngả lãnh sự quán Úc tại Việt Nam. Theo đài ABC cho hay, trong một lá thư từ nhà tù vào tháng Năm vừa qua, ông Khảm cho biết “sức khoẻ tốt, nhưng tinh thần tôi có sa sút.” Con trai ông Khảm nói những lời buộc tội ông Khảm là “lố bịch.” “Ông là người yêu nước nồng nàn, chỉ mong ước những điều tốt đẹp nhất cho đồng bào trong nước,” anh Daniel nói với ABC. Ông Khảm bị bắt giữ trong bối cảnh một cuộc trấn áp rộng lớn bởi nhà nước Việt Nam đối với những người chỉ trích chế độ. Theo Hội Ân Xá Quốc Tế, số tù nhân lương tâm bị giam giữ sai trái trên khắp Việt Nam đã tăng lên 1 phần 3 tới con số 129 người. Tháng Sáu vừa qua, Nguyễn Ngọc Anh, một nhà hoạt động môi trường, đã bị kết án 6 năm tù vì đã viết bài chỉ trích nhà nước trên Facebook. Công dân nước ngoài cũng là mục tiêu. Cũng trong Tháng Sáu, ông Michael Nguyễn Minh Phương, một công dân Hoa Kỳ, đã bị kết án 12 năm tù vì bị kết tội âm mưu lật đổ chính quyền. Tháng Tám năm ngoái, 2 người Mỹ đã bị án tù 14 năm với cáo buộc tội âm mưu lật đổ. Cả hai là thành viên của tổ chức Chính Phủ Lâm Thời Quốc Gia Việt Nam, một tổ chức tranh đấu cho dân chủ đặt cơ sở tại California. Nguồn: The Guardian  
......

Đài truyền hình ABC-Úc phát tin về ông Châu Văn Khảm

ĐÀI TRUYỀN HÌNH ABC: CÔNG DÂN ÚC, ÔNG CHÂU VĂN KHẢM ĐÃ BỊ GIAM GIỮ 6 THÁNG TẠI VIỆT NAM MÀ KHÔNG CÓ LUẬT SƯ BÀO CHỮA Việt Tân FB Gia đình của người công dân Úc, đang mỏi mòn trong lao tù CSVN 6 tháng qua mà không được luật sư biện hộ, cho biết việc ông Khảm bị cáo buộc tội danh khủng bố là “lố bịch”. (Bài của Enrin Handley, Mazoe Ford và Angelique Lu) Ông Châu Văn Khảm, 70 tuổi, bị bắt giữ tại TP HCM vào Tháng Giêng năm nay khi tiếp xúc với một thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ, một tổ chức bị nhà nước CSVN cấm hoạt động. Ông Khảm đang bị điều tra về tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền” theo luật hình sự của Việt Nam vì đã nhập cảnh quốc gia này với giấy tờ giả. Ông Khảm, một công dân Úc đã về hưu, là đảng viên Đảng Việt Tân, một tổ chức vận động dân chủ bị Chính Phủ Việt Nam gán nhãn là “khủng bố”. Đài ABC đã được tham khảo các thông tin của toà lãnh sự (Úc tại Sài Gòn) khi thăm viếng ông Khảm, qua đó cho biết ông Khảm được phép nhận thuốc men, thực phẩm và ngay cả thiệp chúc sinh nhật từ gia đình, nhưng ông Khảm sẽ chỉ được phép gặp luật sư biện hộ khi nào việc điều tra kết thúc vì lý do “bảo mật”. “Sức khoẻ tôi tốt, nhưng tinh thần tôi sa sút”, ông Khảm viết cho gia đình từ nhà tù vào Tháng Năm vừa qua. “Tôi chờ ngày được trở về nhà.” Nhà cầm quyền Việt Nam đã kéo dài thời gian điều tra tới Tháng 9 và có thể gia hạn thêm nữa – nghi phạm có thể bị giam giữ 16 tháng không truy tố hay xét xử đối với những vi phạm trầm trọng, và tới 20 tháng nếu liên quan đến an ninh quốc gia. Ông Khảm hiện đang bị điều tra về tội danh có thể bị án tù từ 12 tháng tới 20 năm, thậm chí tối đa là án tử hình. Dennis, con trai trẻ nhất của ông Khảm, đã nhắn tin vào nhà tù cho cha như sau: “Đừng để họ áp đảo tinh thần ba.“ Qua những cuộc thăm viếng của nhân viên lãnh sự, ông Khảm cũng gửi lời cảm ơn và tình thương yêu tới gia đình, nhắn nhủ việc gửi thuốc men và thực phẩm, và nhắc nhở vợ nhớ chăm sóc những cây đậu bắp trong vườn nhà ở Sydney. “Chúng tôi không biết kết quả sẽ ra sao. Thật khổ tâm,” con trai lớn của ông Khảm nói với ABC. Anh Daniel nói cáo buộc gán cho cha anh rất “lố bịch”. “Cha tôi tuổi đã 70. Ông có quyết tâm nhưng với ông thì không thể nào là bạo động,” anh nói. Gia đình sợ rằng ông Khảm không được phép phát biểu một cách tự do với nhân viên lãnh sự khi họ thăm viếng vì có sự hiện diện của các quản giáo và bị thu hình. Daniel nói anh đã vật vã vì tức giận và buồn bã, và tác động của việc cha Anh bị giam giữ trên mẹ anh vẫn còn nóng. “Ông rất yêu nước và chỉ mong ước điều tốt đẹp nhất cho đồng bào Việt Nam,” Daniel nói. Những bài hát và lời cầu nguyện ông Khảm sớm về với gia đình. Trong khi việc các công dân Úc bị bắt giữ tại các nước cộng sản được truyền thông quốc tế làm ầm ĩ, như vụ Yang Hengjun ở Trung Quốc và Alek Sigley ở Bắc Hàn, thì trường hợp ông Khảm lại tương đối im lặng. Nhưng hiện nay các thành viên cộng đồng người Việt đã phát động lời kêu gọi mạnh mẽ với Chính Phủ Úc để đưa ông Khảm vế với gia đình. Trong một buổi thắp nến cho ông Khảm vào cuối tuần qua, các thành viên trong cộng đồng người Việt tại Úc đã cầu nguyện cho ông Khảm và cất lên những bài hát khi xếp những ngọn nến thành hình nước Việt Nam. Ông Khảm không phải là đảng viên Việt Tân đầu tiên bị bắt giữ vì hoạt động dân chủ tại Việt Nam. Vào Tháng 10, 2010, bà Võ Hồng, một nhân viên xã hội có 2 con, đã bị bắt giữ tại phi trường khi tham gia một cuộc phản đối ôn hoà liên quan đến biển đảo ở Biển Đông. Bà Hồng được trả tự do sau 10 ngày giam giữ. Trong thời gian bị giam bà ngủ trên chiếu trải dưới đất, có màn chống muỗi, trong phòng giam nhỏ cùng với một đồng tù khác mà bà cho là người chỉ điểm cho công an. Bà Hồng nói bà bị thẩm vấn tới 10 giờ mỗi ngày. Bà nói bà chịu đựng được sự “tẩy não” và “uy hiếp”, nhưng giọng nói của bà xúc động khi nhắc tới hai đứa con trai ở nhà tại Úc. “Làm sao chúng chịu nổi khi ‘mẹ bị tù’ ?”, bà nói. Bà Võ Hồng nhìn lại bức hình chụp khi con trai út đón mẹ trở về tại phi trường Melbourne Bà Hồng đã mạnh mẽ bác bỏ cáo buộc Đảng Việt Tân là tổ chức “khủng bố”, và nói là Việt Tân chỉ hoạt động ôn hoà, tương tự như nhận định của người chiến hữu của bà, ông Nguyễn Hiền. Ông Hiền đến từ Perth để hỗ trợ ông Khảm, người mà ông Hiền mô tả là một cá nhân “ân cần và đầy lòng thương người.” “Ông ta đã bị giam giữ rất lâu mà không có cáo buộc, là điều không chấp nhận được cho bất cứ ai trên thế giới,” ông Hiền nói. Carl Thyer, Giáo sư tại Học Viện Quốc Phòng UNSW, ngày hôm nay cho biết là những nhà hoạt động của Đảng Việt Tân bao gồm cả các bác sĩ và luật sư, tại Hoa Kỳ và Úc Châu. Trong khi có những thành viên của chính thể miền Nam Việt Nam chủ trương giải phóng đất nước bằng quân đội, ông Thyer nói, nhưng điều đó đã rất khác với những hoạt động ôn hoà của Đảng Việt Tân ngày hôm nay. “Lật đổ” (chính quyền) không phải bằng mìn hay những chất nổ tự chế (IED) hay súng đạn, mà là những lời phát biểu, ông Thyer nói. Ông Thyer chia sẻ việc “thường xuyên trấn áp” (người dân) đã trở nên một sự việc rất đỗi “bình thường” dựa trên những điều luật mơ hồ trong bộ luật hình sự của Việt Nam. “Rất chính trị – mơ hồ và quá chung chung đủ để kết tội bất cứ ai,” ông nói. Ông Nguyễn Văn Bon, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu, nói rằng việc vi phạm di trú của ông Khảm phải được giải quyết nhanh chóng và ông Khảm không thể bị trừng phạt theo luật an ninh quốc gia vì những sinh hoạt nhân quyền. “Tôi đã yêu cầu Chính Phủ Úc nhanh chóng giải quyết sự việc và đưa ông Khảm về Úc vì ông ta đã không làm điều gì sai,” ông Bon nói. Việt Nam “dập tắt mọi hình thức chỉ trích” Ảnh: Công dân Mỹ Michael Nguyen bị kết án tù 12 năm vì “âm mưu lật đổ chính quyền” (AFP: Vietnam News Agency, File) Việc giam giữ ông Khảm chỉ là một trong nhiều trường hợp mà các tổ chức tranh đấu cho nhân quyền mô tả là tình trạng đàn áp ngày càng tồi tệ với những người đối kháng tại Việt Nam. Mới tháng trước đây, một công dân Mỹ, ông Michael Nguyen, đã bị kết án 12 năm tù giam ví tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền.” Vào Tháng 5 năm nay, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế cho biết có ít nhất 128 tù nhân lương tâm bị giam giữ trên toàn quốc – một sự gia tăng đột ngột so năm ngoái chỉ có 97 người. Theo nhóm “The 88 project” vận động cho quyền tự do phát biểu thì có tới 266 nhà hoạt động đã bị giam giữ. Cô Nikita White nói Chính Quyền Việt Nam “chủ trương dập tắt mọi hình thức chỉ trích”. “Chúng tôi nghe những trường hợp như của ông Khảm rất thường xuyên – những nhà hoạt động bị bỏ tù vì cáo buộc vi phạm an ninh quốc gia trong khi họ chỉ hoạt động ôn hoà” Những người bị giam giữ thường bị những phạm nhân khác đánh đập do sự điều động và đồng loã của các cai tù. Cô Nikita nói nước Úc cần phải áp lực Việt Nam để ông Khảm được xét xử công bằng và không phải đối đầu với án tử hình. “Thực tế là Chính Phủ Việt Nam đã bịt miệng ông Khảm khi từ chối không cho phép luật sư bảo vệ”, cô Nikita nói. “Ông Khảm đã bị từ chối việc xét xử công bằng và căn bản là ông ta đã bị từ chối nhân quyền.” Thủ Tướng Úc Scott Morrison dự trù thăm Việt Nam vào Tháng 8, tuy nhiên văn phòng của ông từ chối không cho biết là trường hợp của ông Khảm sẽ được nêu lên trong chuyến viếng thăm này hay không. Bộ Trưởng Ngoại Giao Úc, bà Marise Payne, đã thăm Việt Nam vào Tháng 6 nhưng không cho biết là có thảo luận về trường hợp ông Khảm hay không. Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã không phản hồi các yêu cầu lên tiếng cho phóng sự này./.
......

Ông Trọng - Sao Không Chống Giặc Mà Lại Chống Dân

Phạm Minh Vũ| Sáng nay, thằng em gần nhà hiện làm Công an Đà Nẵng buồn bực và chia sẻ riêng cho mình, nó nói được điều động đi thu thập thông tin từ các quán Cafe, quán ăn, nhà hàng, các điểm tụ tập đông người... để làm báo cáo cho sếp, cùng các phòng như mảng tôn giáo, mảng giáo dục, mảng xã hội, mảng dân tộc... rồi tổng kết lại, đưa ra đánh giá, xem mức độ dân tình dạo này quan tâm đến biển đông ở mức độ “lạnh, nguội, ấm hay là nóng” mà chuẩn bị các phương án đối phó. Như vậy, đảng Ông Trọng vẫn lo lắng sợ dân xuống đường biểu tình chống giặc ngoại xâm, hơn là việc quan tâm đến chủ quyền bị xâm phạm! Giá như, Đảng ông Trọng lấy tinh thần chống “phản động” mà đem ra chống giặc ngoại xâm thì hay biết mấy! Giá như, Đảng Ông Trọng đề phòng TQ như cách các ông đề phòng “bọn phản động” thì hay biết mấy! Giá như, đảng Ông Trọng xua quân “bịt mõm” đi bảo vệ biển đông hơn là đi bảo vệ BOT thì hay biết mấy! Giá như, đảng ông Trọng xua “đoàn viên thanh niên” đi bảo vệ biển đông hơn là bảo vệ Formosa thì hay biết mấy! Giá như, Đảng Ông Trọng cho công ty TNHH Một Thành Viên Dịch Vụ Công Ích TNXP đi đánh đập, bắt tàu TQ xâm phạm chủ quyền nước ta, hơn là đánh đập chảy máu đầu các chị em, em bé biểu tình ở Saigon thì hay biết mấy! Và giá như, thay vì đi cưỡng chế ở Long Hưng, Lộc Hưng, Thủ Thiêm, Ông Trọng cho lính đi ra cưỡng chế công trình trái phép ở Hoàng Sa, Trường sa thì hay biết mấy! Ngoài chống lại dân ra, tôi thấy đảng Ông Trọng yêu và thương giặc ngoại xâm... vô cùng. Phạm Mình Vũ.
......

Cuối cùng, nạn nhân bị cướp đã bớt ‘hèn với giặc’!

Ẳnh: Hải Dương 981 ngoài khơi biển Việt Nam, tháng Năm, 2014. Phạm Chí Dũng - VOA Phải mất đến hai tuần lễ ‘cân nhắc đại cục’, đến chiều ngày 19/7/2019 Bộ Chính trị đảng Việt Nam mới chỉ đạo cho Bộ Ngoại giao của chế độ này mở miệng: “Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam tại khu vực phía nam Biển Đông”. Lần mở miệng hiếm muộn Lần mở miệng trên là một dịp quá hiếm muộn mà giới chóp bu Việt Nam dám gọi đích danh cái tên Trung Quốc, thay cho não trạng suy sụp về ‘tàu lạ’ và ‘người lạ’ trong rất nhiều lần trước. Trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 xông thẳng vào vùng chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông vào tháng 5 năm 2014 như một cái tát nảy đom đóm vào mặt Bộ Chính trị Việt Nam, Hà Nội đã chỉ dám hé môi ‘càm ràm’ đích danh cái tên Trung Quốc với độ trễ sau đó đến cả tháng trời. Còn trong hai lần tàu Trung Quốc vây bọc và gây sức ép tại Bãi Tư Chính vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2018 để buộc Repsol - một công ty Tây Ban nha là đối tác liên doanh khai thác dầu khí với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - phải rút lui khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, đã hầu như chẳng thấy ‘người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam’ vung tay về phương Bắc, dù chỉ để ấp úng ‘phản đối’ như một lối đọc vẹt chẳng cần tới sách vở. Vào thời gian trên, cho dù có muốn loan tải những thông tin trên kèm theo thái độ phẫn nộ, một số tờ báo nhà nước cũng bị Ban Tuyên giáo trung ương – cơ quan nổi tiếng với biệt danh “vòng kim cô” – cấm cản. Chính thể độc đảng ở Việt Nam đã giấu biệt thông tin được coi là quá sức nhạy cảm này và như co rúm trong nỗi sợ hãi của lịch sử “ngàn năm Bắc thuộc” lẫn và hiện tại “mười sáu chữ vàng”. Vẫn chưa hết run sợ Sau vụ “giương cờ trắng” lần đầu ở Bãi Tư Chính vào tháng Bảy năm 2017, trong cơn quẫn bách mất ngủ lẫn mất ăn, Hà Nội đã một lần nữa phải “cầu viện” Hoa Kỳ, mà cụ thể là kêu gọi một sự hỗ trợ từ hải quân Hoa Kỳ. Tướng Ngô Xuân Lịch – Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam – được giao nhiệm vụ sang Washington để thuyết phục Bộ trưởng quốc phòng Mỹ James Mattis hỗ trợ hải quân. Thế nhưng những gì mà hải quân Mỹ đã tiếp cận Biển Đông vào tháng 3 năm 2018 vẫn không khiến cho giới chóp bu Việt Nam hết run sợ trước Trung Nam Hải. Ngay sau khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ rút về nước và công ty Repsol của Tây Ban Nha cùng đối tác của nó ở Việt Nam một lần nữa thử khai thác dầu khí ở mỏ Cá Rồng Đỏ, nỗi nhục Bãi Tư Chính lại nổ ra lần thứ hai và phủ đầy khắp bộ mặt chính thể Việt Nam: tháng 3 năm 2018, một lần nữa Repsol phải tháo chạy khỏi mỏ dầu khí này sau khi Trung Quốc lại ra tay dọa dẫm. Và đó là lần mà Repsol có vẻ ‘một đi không trở lại’. Còn ‘bản lĩnh Việt Nam’ đã chỉ hiển hiện đến mức cúi đầu chấp nhận bồi thường cho Repsol hơn 200 triệu USD chi phí ban đầu (có ước tính cho biết con số này còn cao hơn, có thể lên đến hơn 300 triệu USD), nhưng đã không thể, và trong thực tế là còn lâu mới dám hó hé trước sức ép ngày càng thô bạo của Trung Quốc. Trong suốt thời gian trên, giới chóp bu Việt Nam còn bị hành hạ không ngớt bởi cái bóng của Vương Nghị - ngoại trưởng Trung Quốc với gương mặt lạnh như tiền - và lời đề nghị như thể chiếu chỉ của họ Vương về ‘Trung Quốc và Việt Nam cùng hợp tác khai thác dầu khí trên biển’. Nếu chấp nhận đề nghị này, giới chóp bu Việt Nam đương nhiên phải mời kẻ cướp vào nhà mình và tự nguyện dâng hiến tài sản cho y. Chưa bao giờ ‘bản lĩnh Việt Nam’ bị thách thức và đe dọa đến thế: tiền nằm ngay trong túi mà không làm sao lấy ra được. Giờ đây, kịch bản thất bại đến mất ngủ ở Bãi Tư Chính đang lặp lại, khiến giới chóp bu Việt Nam mất ăn dầu khí ngay trên vùng lãnh hải của mình và càng bế tắc trong cơn ác mộng ngân sách trước những khoản nợ nước ngoài đang ập đến như sóng thần Biển Đông. Có cầu cứu Mỹ một cách thực chất? Hiện tượng Bộ Ngoại giao, mà đằng sau đó là bộ Chính trị Việt Nam, rốt cuộc đã phải và dám gọi đích danh Trung Quốc “đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam tại khu vực phía nam Biển Đông” trùng với những tin tức về việc tàu Hải Dương - 8 và những tàu cảnh sát biển vẫn ung dung ngự trị ngay gần đảo Trường Sa Lớn và vẫn tiếp tục ‘thăm dò dầu khí’ như chốn không có chủ quyền, phát ra chỉ dấu Bắc Kinh không hề có ý định rút tàu Hải Dương - 8 về nước, mà còn có thể thi hành chiến thuật ‘vờn tàu’ với phía Việt Nam trong một thời gian nữa - tương tự cái cách mà Hải Dương 981 và nhiều tài hải giám đã xung sát với tàu Việt Nam vào năm 2014. Cú vỗ mặt trên lại xảy ra ngay trong và sau chuyến thăm Trung Quốc của Nguyễn Thị Kim Ngân - chủ tịch quốc hội - như một thông điệp không thể cởi mở hơn của Bắc Kinh về việc muốn biến Việt Nam thành chư hầu và biến giới quan lại Việt thành một đám quần thần thành ‘ngựa xe mấy cỗ quân hầu vài tên’. Rốt cuộc, những chuyên gia tâm lý chiến Bắc Kinh đã một lần nữa nắm thóp được tâm lý sợ hãi đến mức ‘đái ra quần’ của giới chóp bu Việt Nam. Vụ Trung Quốc cho tàu thăm dò địa chất Hải Dương - 8 xâm nhập vào khu vực bãi Tư Chính vào tháng 7 năm 2019 chỉ là bước thăm dò ‘bản lĩnh Việt Nam’ thêm một lần nữa, để nếu Hà Nội vẫn không có nổi một động tác ngả mạnh về Mỹ thì Bắc Kinh sẽ tiếp tục những đòn gây hấn mới hơn và khó chịu hơn nhiều, với hai mục tiêu song hành: vừa buộc Việt Nam phải chia bôi nguồn dầu khí khai thác được ở Bãi Tư Chính, vừa chặn lối chuyến đi Mỹ sắp tới của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng. Vậy vào lần này, khi bị ‘đồng chí tốt’, hay còn gọi là ‘bạn vàng’ và cũng là ‘đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất’ hung hãn bắt nạt ở Bãi Tư Chính - khu vực ‘thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’, giới chóp bu Việt Nam sẽ phản ứng thế nào? Liệu sẽ vẫn chịu ‘nuốt nhục’, mà thực chất là ‘hèn với giặc’ như nhiều lần trước, hay sẽ tỏ ra can đảm hơn chạy sang Mỹ để cầu cứu hỗ trợ, nhưng phải là hỗ trợ tác chiến chứ không còn là ‘giao lưu hải quân’ như trước đây, từ Hạm đội Thái Bình Dương? Từ tháng 7 năm 2017, ‘cầu cứu Mỹ’ đã trở thành một triết lý sống còn và cũng là logic không có thì chết của chính thể Việt Nam. Chính thể này, trong khi khư khư ôm trọn quyền hành ‘đã có đảng và nhà nước lo’ để không những không chấp nhận tinh thần yêu nước và biểu thị phản đối Trung Quốc của người dân Việt, mà còn cho công an lao vào đoàn người biểu tình - hệt cảnh bầy cho dữ lao vào cắn xé những con mồi của chúng, thì chỉ còn nhìn thấy ở Mỹ như một cứu cánh duy nhất, trong khi cả Nga và hàn chục ‘đối tác chiến lược toàn diện’ khác đều thản nhiên quay lưng trước cơn nguy khốn nguy cơ chiến tranh Việt - Trung. Thế nhưng sự thể tồi tệ là não trạng đu dây chính trị vẫn bị nén chặt trong những cái đầu bí bách và bế tắc. Từ năm 2017 đến nay đã chẳng có bước tiến đáng kể nào trong mối quan hệ hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ, trong khi vấn đề sự hiện diện của hải quân và không quân Hoa Kỳ tại quân cảng Cam Ranh lẽ ra đã phải được ưu tiên số một. Thái độ vặn vẹo gần đây của Donald Trump với Việt Nam cho thấy ông ta có vẻ không hài lòng với tiến trình ‘hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ’ như rùa ấy.  
......

Thế lực thân địch (*)

canhco’s blog| Hai tuần lễ đã trôi qua việc bãi Tư Chính bị tàu khai thác địa chất Trung Quốc được tàu Hải cảnh yểm trợ vẫn loanh quanh “rà soát” trên vùng biển Việt Nam đang làm dư luận nóng lên với hàng trăm nhận định khác nhau nhưng chung quy người Việt Nam trong và ngoài nước vẫn như đang ngồi trên lửa vì hành vi xâm lấn trắng trợn của Bắc Kinh đối với Biển Đông. Dư luận tỏ ra phẫn nộ khi miệng Trung Quốc tiếp tục khuyên nhủ Việt Nam nên vì đại cục trong khi tay thì thò vào tận vùng biển mà Việt Nam có chủ quyền từ bao lâu nay. Trung Quốc lâu nay vẫn thế, dã tâm chiếm hết Biển Đông bằng đường lưỡi bò trắng trợn không ngần ngại dư luận hay công pháp quốc tế. Bắc Kinh vẫn lấy vũ lực làm căn bản đối với những nước nhỏ chung quanh vùng biển mà nó gọi là tranh chấp mà thật ra là thái độ vũ phu của kẻ vừa mạnh vừa lưu manh nhận vơ chủ quyền các nước về mình nhằm thôn tính một vùng tài nguyên rộng lớn mà từ bao lâu nay chúng vẫn thèm thuồng nhưng chưa nuốt nỗi. Dân chúng thì xôn xao, báo chí sau nhiều ngày chờ đợi cuối cùng cũng được phép lên tiếng, chỉ có điều người có trách nhiệm cao nhất vừa bên chính phủ lẫn bên đảng lại im hơi lặng tiếng làm như không phải chuyện của mình.Trong cương vị Chủ tịch nước ông Nguyễn Phú Trọng không hề trấn an hoặc giải thích sự vụ với dân chúng mặc dù đây là trách nhiệm của ông. Trong tư cách Tổng bí thư ông Nguyễn Phú Trọng cũng không có bất cứ hiệu triệu hay công văn nào cho 4 triệu đảng viên dưới quyền của ông biết vấn đề đã trở nên nghiêm trọng có thể dẫn đến bùng nổ chiến tranh dù là ngắn ngủi. Sự vô tâm đến khó hiểu của ông Trọng không làm cho người dân ngạc nhiên lắm vì từ bao lâu nay thái độ “kính nhi viễn chi” của ông đối với quan thầy Trung Quốc vẫn trước sau như một, nhưng lần này ông đã đi xa hơn, thay vì lên tiếng cảnh báo họa xâm lăng từ phương Bắc thì ông lại tỏ ra “quan ngại” đối với đồng bào ông, những kẻ mà ông gọi là “thế lực thù địch”. Theo tin tức từ báo chí, sáng ngày 20 tháng 7 nhân kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam tại Phủ Chủ tịch, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gặp mặt thân mật 90 Chủ tịch Công đoàn cơ sở tiêu biểu năm 2019 và 10 cán bộ công đoàn nhận Giải thưởng Nguyễn Văn Linh lần thứ nhất. Trong phát biểu chính thức ông Trọng cho biết: “Cần chú trọng giáo dục bản lĩnh chính trị, tăng cường sức đề kháng trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chân chính của công nhân, người lao động, kích động, lôi kéo biểu tình, tụ tập gây rối, làm mất an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc”. Rõ ràng “thế lực thù địch” mà ông Trọng nhắc nhở ở đây không phải là Trung Quốc, vậy thì bản thân ông với tư cách cao vời vợi như thế phải gọi là thế lực gì? Một vài người đã nhanh chóng tìm ra cụm thừ rất phù hợp với vai trò của ông và đồng đảng: “Thế lực thân địch”. Vâng chỉ có thể là thân địch ông mới im hơi lặng tiếng trước họa diệt vong từ Trung Quốc. Ông thân địch vì chỉ có Trung Quốc mới có thể giúp ông và đồng đảng giữ vững chiếc ghế bằng máu và nước mắt nhân dân đang chia sẻ cho ông và hàng triệu đảng viên. Thế lực của ông chống Trung Quốc bằng mồm mà lại yếu như tiếng cuốc kêu đêm hè, vật vã không phải vì yêu thương đất nước nhân dân mà lăn lộn vì tranh nhau miếng đỉnh chung từ một ngoại bang bất hảo. Thế lực thân địch của ông ngày một lộ rõ tâm thế phản động và phản quốc. Trong khi tàu cảnh sát biển Việt Nam khó khăn tránh tàu địch nhiều lần lớn hơn tại khu vực bãi Tư Chính thì “thế lực thân địch” của ông trong bờ kéo nhau sang Trung Quốc hợp ca bài bán nước. Ngày 21/07/2019   tại thành phố Quý Dương, thủ phủ tỉnh Quý Châu, Tây Nam Trung Quốc, đã khai mạc hội thảo lý luận lần thứ 15 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc với chủ đề “Một số vấn đề có tính quy luật trong quá trình hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa”. Tại lễ khai mạc hội thảo, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng đã có bài phát biểu đề dẫn với tiêu đề “Những vấn đề có tính quy luật trong quá trình hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa”. Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc Hoàng Khôn Minh phát biểu đề dẫn với tiêu đề “Một số nhận thức về quy luật xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc”. Lý luận gì với kẻ thù vậy ông Thưởng? Phải chăng mớ lý luận hôi tanh mùi máu người của các chiến sĩ hải quân sắp đổ ra cho các ông nâng ly chúc mừng sự thành công tốt đẹp của quá trình hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, cụm từ mà ông Trọng trong tư cách Tiến sĩ xây dụng đảng đã công khai nhìn nhận là không thể tìm thấy, bản thân ông tuổi gì mà lượm nó lên, phủi sạch sẽ và tiếp tục mụ mị đảng viên của ông? Các ông và “thế lực thân địch” của đảng các ông có xấu hỗ không khi đọc bản tin Mỹ đả kích Trung Quốc “bắt nạt” Việt Nam giữa tranh cãi về tàu khảo sát được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố vào ngày 20 tháng 7 năm 2019. Mỹ đã lên án Trung Quốc bằng những lời lẽ đanh thép, cáo buộc nước này có “hành vi bắt nạt” và “làm suy yếu hòa bình và an ninh” khu vực giữa lúc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía nam Biển Đông. Thông cáo dài của Bộ Ngoại giao Mỹ cho thấy một sự ủng hộ gần như rõ ràng đối với Việt Nam trong một tranh cãi gay gắt với nước láng giềng và thể hiện lập trường mạnh mẽ của Mỹ về vụ việc được nói là tàu Trung Quốc cản trở hoạt động dầu khí của các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Đành rằng Mỹ bảo vệ Biển Đông vì không thể để cho Trung Quốc làm mưa làm gió trên trướng quốc tế mới tỏ ra cứng rắn như vậy chứ không phải lo lắng gì cho Việt Nam. Bổn phận lo lắng thuộc về phần hành của các ông, những kẻ mang trên vai đủ thứ danh phận nhưng không có danh phận nào bảo vệ đất nước. Các ông và thế lực của các ông lo ngay ngáy bảo vệ đảng trước khi bảo vệ chủ quyền đất nước, vì vậy đã không ngần ngại tay trong tay kẻ thù của nhân dân làm điều sai quấy mà lịch sử trước sau gì cũng bạch hóa. Là thế lực thân địch rõ rệt từ những cuộc truy hoan được mỹ lệ hóa là hợp tác, các ông đã ngang nhiên xem nhân dân là những con cờ bằng gỗ mặc sức gõ lên mặt chúng những trạng từ nhơ bẩn mà các ông đã học được từ Bắc Kinh. Các ông không còn một chút liêm sĩ vì vậy trong các trang lịch sử cõng rắn cắn gà nhà, bọn các ông tồi tệ chưa bao giờ từng thấy trước đó. Lá bài hòa bình ổn định chẳng qua là gìn giữ tài sản mà các ông và cả thế lực của các ông kiếm chác được từ xương máu nhân dân chứ không phải là nhường nhịn Trung Quốc vì sợ hãi chiến tranh gây tổn hại cho đất nước. Đất nước này từng chinh chiến với phương Bắc và cũng từng đánh đuổi bọn chúng về Tàu. Các ông đã từ chối đưa bàn tay ra nắm lấy sợi dây thừng của Mỹ nhằm kéo đất nước ra khỏi tăm tối dưới bóng ma Trung Quốc bởi bản thân các ông chính là một trong những bóng ma của dân tộc chỉ khác là biết nói tiếng Việt mà thôi. Nhảy múa trên đống chữ nghĩa mà đảng nặn óc viết ra bao nhiêu năm nay cũng không thể làm cho người dân quên chiếc tàu thăm dò địa chất tại bãi Tư Chính, nơi mà nguồn tài nguyên đang nuôi các ông lớn mạnh để bẻ lái con thuyển đất nước theo hướng thân địch. Cứ mỗi tiếng hụ thảng thốt, rách ruột của tàu cảnh sát biển Việt Nam nổi lên ngoài kia thì trong này nhân dân lại ý thức thêm về vai trò của các ông, và vì vậy không thể nghi ngờ gì nữa rằng các ông chẳng những đem con bỏ chợ mà còn đem con cho kẻ thù truy sát để trong bờ các ông cùng nhau hợp ca với nhau bài đồng ca hòa bình ổn định.   (*) cụm từ mới hết sức phù hợp đang lưu hành trên mạng xã hội. canhco's blog Ảnh CTM Media - Âu Châu    
......

Sở Giáo Dục tỉnh Long An ra lệnh bán ‘áo lót’ cho nữ sinh

Theo lệnh của Sở Giáo Dục tỉnh Long An, Phòng Giáo Dục huyện Cần Đước gửi công văn đến các trường học địa phương kiêm nhiệm luôn cả việc tiếp thị “áo lá kháng khuẩn” cho nữ sinh. Văn bản của Phòng Giáo Dục huyện Cần Đước tỉnh Long An gửi các trường “tiếp thị” áo lá “kháng khuẩn” cho nữ sinh.. Vụ này được báo Giáo Dục Việt Nam đề cập từ ngày Thứ Sáu, 19 Tháng Bảy, sang ngày Thứ Bảy, 20 Tháng Bảy cho là “một chuyện khôi hài.” Nhiệm vụ của trường học là truyền dạy kiến thức nhưng các trường học bị lợi dụng để bán các loại hàng hóa từ nồi niêu song chảo đến “máy sục khí khử độc,” nay thấy tiếp thị cả áo lót cho nữ sinh của một công ty quảng cáo là “áo lá kháng khuẩn.” Tin tức bị rò rỉ được tờ Giáo Dục Việt Nam nói hôm 18 Tháng Bảy, ông Đặng Minh Tấn, phó trưởng Phòng Giáo Dục và Đào Tạo huyện Cần Đước, tỉnh Long An, ký văn bản gửi các trường trong huyện thúc giục “phối hợp, hỗ trợ Công ty dệt may Nguyên Dung triển khai kế hoạch giới thiệu dòng sản phẩm ‘ao lá kháng khuẩn.’” Không phải Phòng Giáo Dục Cần Đước tự làm mà đã nhận chỉ thị từ cấp trên, tức Sở Giáo Dục–Đào Tạo của tỉnh Long An để bán áo lót. Điều này cho thấy có một kế hoạch ăn chia qua nhiều cấp nên cái món “áo lá kháng khuẩn” không biết tác dụng “kháng khuẩn” thế nào hay chỉ quảng cáo láo, mà đã được “hét giá” tới 129,000 đồng (khoảng $5.54 theo hối suất hiện tại). Theo tờ Giáo Dục Việt Nam dẫn lại một bài viết trên tờ Tiền Phong kể rằng “Lâu nay, một số trường học vẫn bị phê bình vì biến lớp học thành cái chợ khi tiếp thị bán đủ các loại đồ ‘thượng vàng hạ cám’ như sách vở rồi ép học sinh mua tăm, mua sách báo hay đồ dùng học tập… Nhiêu thầy cô giáo, các em học sinh phải méo mặt khi phải mua hàng theo kiểu gượng ép.” “Không biết có phải ngành Giáo dục của tỉnh nhà làm thay việc của cha mẹ học sinh nữ hay không khi rất nhiệt tình khi ra hẳn công văn giới thiệu hàng ‘áo lá diệt khuẩn,’” tờ Giáo Dục Việt Nam đặt nghi vấn. Theo tờ Giáo Dục Việt Nam, “Chắc ngành giáo dục của tỉnh Long An biết công văn là phương tiện giao tiếp chính thức của cơ quan nhà nước với cấp trên, cấp dưới và với công dân và có công văn nghĩa là có tiếng nói chính thức của ngành” nay cái phương cách truyền đạt mệnh lệnh giáo dục đó lại được dùng cả vào việc bán hàng, mà lại bán cả áo lót cho nữ sinh “thì đúng là chịu thật rồi.” Đầu Tháng Giêng năm 2017, người ta thấy tờ Giáo Dục Việt Nam đăng tải ý kiến của một độc giả và cũng là một giáo viên tên Trần Văn Tám kêu rằng “việc tiếp thị sản phẩm trong trường học không chỉ gây phiền toái cho nhà trường mà thậm chí có không ít thầy cô bị lừa bởi những chiêu tiếp thị như thế.” Ông Tám nói: “Tôi tin chắc một điều tất cả các trường học trên cả nước ít nhiều các vị hiệu trưởng đã từng tiếp nhân viên tiếp thị khi thì họ đến chào bán sách tham khảo, lúc thì bán tăm, bán bút bi, vé xem ca nhạc, treo bảng quảng cáo, tour đi tham quan du lịch cho giáo viên hay học sinh.” Khi tin tức bị xì ra, bà Nguyễn Thị Thanh Xuân, trưởng Phòng Giáo Dục và Đào Tạo huyện Cần Đước, “thừa nhận, việc giới thiệu sản phẩm này đúng là hơi nhạy cảm, và Phòng Giáo Dục và Đào Tạo huyện sẽ rút kinh nghiệm,” tờ Giáo Dục Việt Nam kể lại. (TN)    
......

Bài phát biểu của Tổng Thống Đài Loan Thái Anh Văn tại Mỹ

Toàn văn bài phát biểu của Bà Thái Anh Văn - Tổng thống Đài Loan - tại Đại học Columbia ở New York ngày 12/7/2019. Kim Chi Được lời mời tới phát biểu ở đây, nơi tiền phong về tự do ngôn luận và sự đa dạng quả là vinh hạnh lớn lao. Tôi tốt nghiệp trường Luật Cornell năm 1980, hôm nay trở lại môi trường đại học ở New York làm sống lại bao kỷ niệm. Đời sống ở New York những năm 1980 quả là đã mở mắt cho người sinh viên trẻ đến từ Đài Loan hồi đó chẳng thể nào dám coi là cái nôi của dân chủ. New York lúc đó với chuẩn mực về sự đa dạng cùng với các quan điểm khác nhau cùng tồn tại và hôm nay đứng đây tôi vui sướng thấy rằng điều này ở New York vẫn trường tồn và không hề thay đổi. Câu chuyện về ‘sự thay đổi’ chính là điều tôi muốn nói hôm nay. Đó là câu chuyện Đài Loan. Đó là câu chuyện về một hành trình của hòn đảo không xa Trung Hoa lục địa đã tìm ra cho mình con đường dân chủ hoá và đã nêu tấm gương cho thế giới về bước đi lên tới nền dân chủ. Trong thời kỳ đầu của sự quá độ về mặt chính trị, người ta bảo có dân chủ nào tồn tại được dưới cái bóng của Trung Quốc? Vậy mà Đài Loan hôm nay là biểu hiện của một xã hội dân chủ rộng rãi và hệ thống chính trị vững mạnh. Người ta còn bảo hòn đảo tài nguyên hạn hẹp với số dân có 23 triệu người thì làm được trò trống gì trong nền kinh tế toàn cầu. Vậy mà nay chúng tôi đã trở thành đối tác kinh tế đứng thứ 11 trong số các đối tác lớn nhất của Hoa Kỳ. Người ta còn nói các giá trị tiến bộ là sao mà bén rễ được ở xã hội Đông Á. Nhưng hôm nay tôi đứng đây là người phụ nữ đầu tiên làm Tổng thống Đài Loan, và chúng tôi là quốc gia đầu tiên ở châu Á thực hiện hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính. Câu chuyện Đài Loan có vẻ như là không thể nào thành công. Người ta còn bảo chúng tôi là thể hiện sự kỳ diệu của dân chủ, nhưng bản thân tôi không bao giờ tin rằng trên đời này có ‘sự kỳ diệu’ nào cả. Mà tôi tin vào ý chí của người dân, tôi đặt niềm tin vào tầm nhìn của nhân dân về một thế giới tốt đẹp hơn. Cũng như nước Mỹ, con đường tiến lên dân chủ của chúng tôi cũng thật gian nan, cũng có máu đổ, cũng thật khó nhọc với bao mồ hôi và nước mắt của tiền nhân. Giờ đây thế hệ chúng tôi phải gánh vác trọng trách và tiếp tục gương cao bó đuốc soi sáng con đường cho các quốc gia vẫn đang trên hành trình hướng tới dân chủ. Trọng trách trên vai chúng tôi thật nặng nề, và con đường đang đi đâu phải dễ dàng. Bởi những thử thách ở trước Đài Loan hôm nay lại hoàn toàn khác với những thử thách mà chúng tôi đã vượt qua trong những thập kỷ trước. Những thử thách ấy cũng là điều mà tất cả quốc gia dân chủ của thế giới trong thế kỷ 21 phải đương đầu. Vì sao như vậy? Bởi vì nền tự do trên thế giới hiện đang đứng trước sự đe doạ chưa từng có trong lịch sử. Chúng ta thấy sự đe doạ đó đang diễn ra tại Hồng Kông. Vì không có phương tiện nào khác để lên tiếng, giới trẻ đã xuống đường để đấu tranh đòi tự do trong một xã hội dân chủ. Nhân dân Đài Loan chúng tôi sát cánh với những thanh niên dũng cảm ấy. Kinh nghiệm của Hồng Kông với cái gọi là “một quốc gia, hai thể chế” là bài học cho thế giới thấy rõ hơn bao giờ hết rằng độc tài không thể nào cùng tồn tại với dân chủ. Khi có dịp là thể chế độc tài sẽ bóp chết dân chủ, chỉ cần một tia sáng yếu ớt hé lên ánh dân chủ thôi thì cũng đã bị dập cho phải tắt. Hành trình dân chủ có thể từ từ như giọt nước thấm vào đất, chỉ nhẹ như làn gió và dường như người ta không cảm thấy điều đó đang diễn ra. Thử tưởng tượng: Bộ máy độc tài càng ngày càng làm cho đời sống con người bị bó chặt. Bỗng nhiên một ngày quán sách bị đóng cửa vì bán sách cấm. Bỗng nhiên người ta bị đưa đi thẩm vấn vì đã đăng bài trên mạng xã hội phê phán chính sách gì đó của nhà nước. Quý vị đang yên đang lành, bỗng dưng lại cảm thấy như bị một thế lực vô hình kiểm soát từng bước đi. Vậy là quý vị bắt đầu phải ngẫm lại để tự kiểm duyệt lời nói và cách tư duy của mình. Quý vị không dám bàn thế sự với bạn bè như trước vì sợ lời nói của mình sẽ bị ai đó nghe. Quý vị phải dành bao thời gian cảnh giác trước sau để được an toàn thì còn đâu thời gian để suy nghĩ về tương lai chi nữa. Từ giảng đường Đại học Columbia đây, điều tôi đang nói có vẻ như lạ lùng lắm, như xa xôi lắm. Nhưng trên thực tế, tình cảnh ấy đang diễn ra ngay trước mắt. Bởi vậy chính lúc này đây, câu chuyện của chúng tôi, câu chuyện Đài Loan cần phải được thế giới nghe thấy. Đó là câu chuyện về sự kiên trì hướng tới dân chủ, là câu chuyện về lòng quyết tâm với mục tiêu dân chủ sẵn sàng vượt qua mọi trở lực. Câu chuyện của chúng tôi là câu chuyện tại sao các giá trị vẫn phải là nền tảng bền vững. Vực sâu ngăn cách sự khác biệt về chính trị và văn hoá nơi eo biển Đài Loan mỗi ngày mỗi sâu hơn. Mỗi ngày Đài Loan chọn cho mình tự do ngôn luận, quyền cho con người và nền pháp trị là mỗi ngày chúng tôi trôi ra xa hơn khỏi cái vòng ảnh hưởng của độc tài toàn trị. Câu chuyện của chúng tôi, sự tồn tại của chúng tôi chính là điều đánh thức thế giới rằng dân chủ là tài sản quý báu nhất của chúng ta. Chúng ta phải bảo vệ dân chủ bằng mọi giá. Từng ngày từng ngày, Đài Loan đứng vững trên tiền tuyến của dân chủ, đương đầu với các thử thách mới đầy cam go, đầy khác biệt chỉ có ở kỷ nguyên công nghệ thông tin. Nhưng chúng tôi không đơn độc. Thực tế là các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, trên thế giới đều đang phải trong trận chiến chống lại sự xâm nhập trong cuộc chiến tranh kiểu mới về nhận thức từng ngày. Các chính phủ độc tài toàn trị muốn khai thác sự tự do ngôn luận đặc thù của xã hội dân chủ để gieo mầm chia rẽ chúng ta, những mong sẽ làm cho chúng ta phải nghĩ lại về hệ thống chính trị của mình và chúng ta sẽ mất đi niềm tin vào dân chủ. Đài Loan đã ở nơi tiền tuyến của cuộc chiến ấy ròng rã bao nhiêu năm rồi, nhờ đó mà chúng tôi cũng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm để chia sẻ với thế giới. Ở kỷ nguyên kỹ thuật số, thông tin sai sự thật có thể được biến hoá thành sự thật chỉ trong vài giờ đồng hồ. Nhưng thử thách lớn nhất để chống lại sự đe doạ này là chúng ta phải tìm được sự cân bằng giữa một bên là an ninh quốc gia và một bên là tự do ngôn luận. Ở Đài Loan, chúng tôi đã thực hiện các bước đầu tiên coi vấn đề này là chính sách ưu tiên. Chúng tôi đã củng cố sức mạnh của hệ thống pháp lý nhằm xác định và ngăn cản sự lan toả của thông tin sai sự thật. Chúng tôi đang đi sâu vào vấn đề chống rò rỉ tin tình báo bởi các thế lực bên ngoài. Cùng với hệ thống chia sẻ tin tình báo mạnh mẽ hơn với các quốc gia khác, chúng tôi sẽ nâng cao được năng lực làm việc tốt hơn nhằm ngăn chặn các đe doạ loại này. Nhưng dân chủ cũng phải đương đầu với các thử thách khác nữa, nhất là trong vấn đề lấy đòn bẩy kinh tế treo theo các điều kiện ngầm. Nhiều quốc gia trên thế giới đang bị người ta đặt vào vị thế phải chọn một bên là dân chủ, một bên là phát triển kinh tế và vấn đề lựa chọn thế nào là đúng lại càng ngày càng trở nên mù mờ hơn. Nhưng khi nào tôi còn ở cương vị Tổng thống, thì Đài Loan sẽ còn tiếp tục chứng minh cho thế giới thấy rằng dân chủ và tăng trưởng kinh tế không chỉ có lợi cả hai mặt và là hai vấn đề thực sự gắn chặt với nhau. Nền kinh tế của chúng tôi đã từng rơi vào tình trạng bị lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc làm cho sự chủ động của chúng tôi bị giới hạn trong các vấn đề song phương. Trung Quốc đã triệt để khai thác sự lệ thuộc này, lấy đó làm phương tiện xâm nhập xã hội chúng tôi, nhằm tạo cơ sở làm con bài để mặc cả đòi chúng tôi phải lấy nền dân chủ của mình ra để đánh đổi. Nhưng Đài Loan đã quyết tâm theo đuổi con đường khác để phát triển kinh tế. Nền dân chủ sẽ ý nghĩa gì nếu để mất đi mảnh đất gieo mầm cho sự sáng tạo và nuôi dưỡng ý tưởng mới được trở thành hiện thực? Chúng tôi đã dấn bước cải cách nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư dễ dàng nhờ đó đã đạt được con số kỷ lục các công ty Đài Loan trở về. Cũng nhờ thế mà các công ty nước ngoài, nhất là các công ty lớn cũng mở rộng đầu tư và hoạt động tại Đài Loan. Chỉ trong năm nay, các công ty này đã đầu tư hàng tỷ đô la Mỹ vào nền kinh tế của chúng tôi và tạo ra hàng vạn việc làm. Dòng chảy đầu tư sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm trước mắt. Chúng tôi đã làm việc không mệt mỏi để đóng vai trò tích cực xây dựng trât tự thương mại khu vực dựa trên các quy định pháp luật và xây dựng mối quan hệ thương mại vững mạnh hơn với các thị trường ở vùng Nam Á và Đông Nam Á. Chính sách mới của chúng tôi hướng về phía Nam đã mang lại mức tăng trưởng vượt bậc ở khu vực trong ba năm qua và điều quan trọng hơn nữa đó là sự tăng trưởng thực sự bền vững. Trong khi nhiều quốc gia trên thế giới bị rơi vào hoàn cảnh là nạn nhân của cái bẫy vốn vay, chúng tôi trụ vững với chính sách nhấn mạnh sự hợp tác phải là sự phát triển bền vững cho cả đôi bên, và các quốc gia đối tác của chúng tôi ở Nam Á và Đông Nam Á là minh chứng cho sự có lợi của cả hai bên trên cơ sở đó. Trong khi Trung Quốc tập trung vào thủ đoạn cướp giật đồng minh của chúng tôi nhằm cô lập chúng tôi, chúng tôi vẫn kiên quyết thực hiện các dự án với mục tiêu làm sao cho cả hai bên đối tác đều phải trở thành các quốc gia tốt hơn cho đời sống con người. Chúng tôi cũng đang giúp cho các quốc gia trên thế giới xây dựng năng lực kinh tế và năng lực dân chủ nhằm tạo dựng lực lượng lao động sẵn sàng cho thế kỷ 21 với hệ thống hạ tầng rõ ràng về cấu trúc cơ bản và công nghệ số. Một lần nữa, Đài Loan mang tới cho thế giới một hình mẫu về sự phát triển tích cực và phát triển tiến bộ. Chúng tôi từ chối bị thao túng bởi các hành vi đe doạ nhằm nuốt sống chúng tôi, và chúng tôi vẫn từng bước chứng minh rằng sự hợp tác thành thực và công khai sẽ mang lại kết quả thật sự và lâu dài. Chúng tôi đã thành công trong lĩnh vực điều chỉnh để thích ứng với các thử thách đặt ra bởi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, không phải vì chúng tôi bất chấp dân chủ mà chính vì chúng tôi có dân chủ nên mới thành công. Hệ thống dân chủ của chúng tôi đã làm cho chúng tôi trở thành quốc gia thân thiện với các các ý tưởng đa dạng và các phát kiến có đất dụng võ, tạo cho quốc gia có sự linh hoạt để phá đi những khuôn mẫu mòn mỏi nay đã lỗi thời. Nhân câu hỏi quý vị đặt ra rằng làm thế nào để lựa chọn giữa dân chủ và tăng trưởng kinh tế, tôi xin đáp rằng sự lựa chọn đã rõ ràng: dân chủ và tăng trưởng kinh tế là hai mặt không thể tách rời. Lịch sử đã cho chúng ta bài học rằng các quốc gia dân chủ có sức mạnh nhất khi thống nhất hành động và yếu nhất khi bị chia rẽ. Nếu không có Đài Loan, liên minh quốc tế giữa các quốc gia đồng chí hướng sẽ mất đi sự nối kết mấu chốt trong nỗ lực đảm bảo các giá trị của chúng ta sẽ được truyền lại cho các thế hệ tương lai. Đài Loan hiên ngang là một minh chứng hiếm có về một quốc gia vừa đã từng nếm mùi độc tài chuyên chế nay lại là quốc gia tiên phong cho dân chủ trong thời hiện đại. Chính vì lẽ đó điều càng quan trọng hơn bao giờ hết là cộng đồng quốc tế hãy ủng hộ một Đài Loan tự do và dân chủ. Sự sống còn của Đài Loan không phải chỉ là trong mối quan hệ xuyên eo biển. Đài Loan là ngọn hải đăng của nền dân chủ ở vùng Ấn Độ -Thái bình dương, và cả thế giới đang theo dõi chặt chẽ những tiền lệ chúng tôi đặt ra cho tương lai của nền dân chủ. Là một thành viên của cộng đồng thế giới các quốc gia đồng chí hướng, chúng tôi biết rằng chúng tôi không đứng một mình. Xin nhắc lại lời của Herbert Hoover "Tự do là cánh cửa mở ra đón ánh sáng của tinh thần nhân văn và nhân phẩm của con người”. Thử thách ở phía trước quả là không dễ dàng, nhưng cộng đồng quốc tế sát cánh với chúng tôi. Đài Loan luôn đứng vững với quyết tâm của mình. Cùng nhau, chúng ta sẽ làm cho ánh sáng của tinh thần ấy chiếu lên mọi nơi trên thế gian, chỉ cần rằng chúng ta chọn cách mở cánh cửa và trực diện với tương lai đang chờ phía trước. Nguyên văn tiếng Anh President Tsai attends discussion session at Columbia University https://english.president.gov.tw/News/5776   Bình luận của ông Tô Văn Trường: Bài phát biểu của bà Tổng thống Đài Loan ngày 12/7/ 2019, thực sự gây ấn tượng trên toàn thế giới vì chưa có tiền lệ. Bà Thái Anh Văn đã đề cập đến một trong những vấn đề cốt lõi nhất của lịch sử thế giới hiện đại là vai trò của tư duy chính trị và bản lĩnh người lãnh đạo một quốc gia nhỏ bé muốn tồn tại và vươn lên khi phải đối mặt với những thách thức sống còn. Với chủ đề quan trọng và mang tính khái quát cao như vậy, bằng ngôn từ xúc tích và lập luận chặt chẽ, phát biểu của bà thực sự gây ấn tượng mạnh không chỉ với các chính trị gia mà còn đối với tất cả những ai đọc bài phát biểu của bà. Bài nói của bà xuất hiện đúng vào lúc giới lãnh đạo Trung Quốc đang thực hiện chiến thuật quen thuộc "đẩy lửa ra bên ngoài". Họ đang gây hấn với nhiều nước trên nhiều bình diện để kích động tâm lý dân tộc Đại Hán, đánh lạc hướng và xoa dịu những căng thẳng trong nước do suy giảm kinh tế, do những bất ổn bùng phát ở Tân Cương và Tây Tạng. Bà đã phân tích Đài Loan văn minh, kinh tế phát triển, được thế giới tôn trọng là do có song hành dân chủ về kinh tế và chính trị. Đài Loan cũng từng phải trải qua giai đoạn ban đầu tập trung quyền lực, nhưng sau đó họ đã dân chủ về chính trị. Câu chuyện dân chủ ở Đài Loan có thể đánh đổ luận điểm cho rằng: các nước Á Đông phải chuyên quyền, tập trung vì chưa có văn hoá dân chủ, nên nếu dân chủ sẽ loạn. Kinh tế Đài Loan có thời gian dài đã từng phụ thuộc vào Trung Quốc. Nhưng khi Trung Quốc lấy kinh tế đe doạ thì Đài Loan đã có chiến lược phát triển để giữ độc lập và không bị đe doạ bởi Trung Quốc. Và kinh tế Đài Loan vẫn phát triển rất tốt. Đây là bài học vô cùng quan trọng về phát triển kinh tế cho những nước bên cạnh Trung Quốc. Và cũng là bài học cho các nước khác, trong đó có cả một số nước Châu Âu đang bị Trung Quốc gây sức ép. Về chính trị, Đài Loan bị coi là một phần của Trung Quốc, lại bị cô lập về ngoại giao, và cũng ở sát với Trung Quốc nhưng họ vẫn tồn tại độc lập. Họ không thể chấp nhận ý thức hệ và miếng mồi “một quốc gia, hai chế độ” của Trung Quốc vì thực tế diễn ra ở Hồng Kông hơn 20 năm nay cho thấy chế độ độc tài và dân chủ không thể cùng tồn tại. Nước ta chuẩn bị Đại hội khóa 13 của đảng cầm quyền, đang bàn về cải cách, đổi mới chính trị. Cốt lõi vẫn là vấn đề dân chủ. Dân chủ là tài sản quý giá nhất của nhân loại. Hiến pháp nước ta đã quy định rõ các quyền cơ bản của dân, Đảng khẳng định lấy dân làm gốc, mọi việc đều do dân, vì dân, dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra. Thế nhưng các quyền cơ bản của dân bị xâm phạm, quan chức vô cảm, tham nhũng hoành hành, lò của Tổng bí thư đốt được củi này thì củi khác sinh ra, đốt không xuế, chỉ vì thể chế đã bị lợi ích nhóm thao túng, không có cơ chế để thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đổi mới kinh tế mà hệ thống chính trị vẫn y nguyên 30 năm, trong khi thế giới thay đổi mạnh mẽ nhanh chóng, người dân không được tự do, các ý tưởng đổi mới sáng tạo bị thui chột, thì làm sao theo kịp thế giới? Tổng kết 150 thành lập các đảng xã hội dân chủ cho thấy có hai con đường đi đến chủ nghĩa xã hội: bằng con đường dân chủ dựa vào sức mạnh của quần chúng thì thành công, bằng chuyên chính thì chưa thấy nước nào thành công. Mọi người dân ai cũng muốn có tự do dân chủ, trong lựa chọn cách sống, cách làm việc của mình hòa hợp với cộng đồng mình đang sống, và góp sức cho cộng đồng ngày một tốt hơn, trong đó có mình. Không thể áp đặt một cách sống mà người dân không muốn. Không thể cưỡng chế buộc người dân làm cái việc mà dân không chấp nhận. Không thể độc quyền chân lý và áp đặt lên dân cái mà người dân không muốn. Đài Loan không viện dẫn lý do là sống bên cạnh ông láng giềng lớn hung hăng như Trung Quốc thì phải nhẫn nhịn, chịu thiệt để đổi lấy hoà bình và yên ổn. Đó cũng là điểm rất đặc biệt rút ra từ bài diễn văn của Tổng thống Đài Loan. Dân Đài Loan hoàn toàn Á Đông. Vậy mà họ phát triển kinh tế mạnh mẽ cùng với văn minh, dân chủ phương Tây. Xã hội Đài Loan văn minh, được người dân hài lòng, khác hẳn với xã hội Trung Quốc lục địa hôm nay. Những gì có thể suy ngẫm rút ra từ bài phát biểu của bà Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn, hẳn mỗi người Việt Nam bình thường cũng có thể thấy rõ, nhất là trong tình hình nước sôi lửa bỏng hiện nay của mối quan hệ Trung-Việt. Xin kết luận bằng lời của Winston Churchill: "Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn”. Tô Văn Trường      
......

Vì sao giặc vào nhà, báo đảng vẫn chưa dám gọi tên?

Gió Bấc’s blog – RFA| Trung Quốc hùng hổ đưa tàu chiến, tàu thăm dò, tàu dân quân vũ trang vào vùng đặc quyền kinh tế cách đất liền không đầy 200 km, uy hiếp khiêu khích lực lượng chấp pháp Việt Nam hơn nửa tháng trời nhưng cơ quan ngôn luận của đảng vẫn ngậm miệng ăn tiền. Mãi sau khi phía Trung Quốc nêu đích danh Việt Nam đe nẹt, báo chí nước ngoài gặng hỏi báo đảng mới rụt rè lên tiếng “Việt Nam kiên quyết đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế” {1}. Đấu tranh với ai thì không dám nói. Trước hành vi cướp đất, cướp biển hung hăng bằng vũ lực, tuyên bố nhũn nhặn khiếp nhược ấy khác nào cam kết đầu hàng không kháng cự? Dư luận thông tin báo chí nước ngoài phát hiện và thông tin Trung Quốc đưa tàu vào vào bãi Tư Chính, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam từ ngày 3-7, một hành vi khiêu khích, xâm phạm chủ quyền quốc gia cực kỳ nghiêm trọng nhưng đảng, chính phủ Việt Cộng vẫn một mực trung thành với 16 chữ vàng, vẫn không dám nhắc đến tên bạn vàng Trung Quốc và vẫn trung thành với lập trường biện pháp hòa bình. Mãi đến ngày 20-7, ba ngày sau khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nêu đích danh Việt Nam trong một tuyên bố răn đe thì báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Việt Nam mới rụt rè đăng lại thông tin dẫn lời người phát ngôn Bộ Ngoại Giao trả lời báo chí nước ngoài với tiêu đề hiền lành như đã dẫn. Bị Tàu bêu tên, phải mở miệng Đáng lưu ý là củng một nội dung thông tin nhưng so với các báo quốc doanh đàn em như báo Tuổi Trẻ “Yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển hoàn toàn của Việt Nam”, hay Thanh Niên: “Trung Quốc vi phạm thô bạo quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam” tiêu đề bài báo Nhân Dân đã hạ nhiệt, nhẫn nhục đến mức như một thông điệp cầu hòa. Thông điệp của người phát ngôn Bộ Ngoại Giao đã được đảng duyệt “đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế” vừa thụ động, mơ hồ vừa tối nghĩa đến vô nghĩa. Nhiều năm qua, trước mọi tình huống đưa giàn khoan xâm nhập lãnh hải, thềm lục địa; đâm chìm tàu cá, bắt cóc, làm chết ngư dân; dùng vòi rồng phun nước, dùng tàu sắt lớn khiêu khích, ép lấn, đâm chìm tàu cảnh sát biển…. thì  “đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế” chỉ được cụ thể hóa bằng hình thức duy nhất là phát biểu yếu ớt là sự “quan ngại” của người phát ngôn Bộ Ngoại Giao. Run rẩy trước đối tác chiến lược hợp tác toàn diện, anh bạn láng giềng bốn tốt đã chiếm biển, chiếm quần đảo Hoàng Sa, một phần quần đảo Trường Sa và đang tiếp tục lấn chiếm đến vùng đặc quyền kinh tế, đảng quang vinh muôn năm, đỉnh cao trí tuệ của Việt Nam không dám nói một lời nào đòi lại đất đai đã mất, thậm chí cũng không dám xin quy tập hài cốt 64 liệt sĩ đang ngậm căm hờn dưới lòng biển Gạc Ma. Bịt miệng dân, tự trói tay mình Đối nghịch với truyền thống Diên Hồng, Bình Than của cha ông và cũng chia tay với chiến lược chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, đảng thẳng tay đàn áp mọi người dân kể cả những trí thức, cán bộ lão thành cách mạng lên tiếng chống Trung Quốc, đòi bảo vệ chủ quyền đất đai biển đảo. Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, … ở Miền Nam, Nguyên Ngọc, Chu Hảo, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh … ở Miền Bắc đã bị chụp cho cái mũ diễn biến hòa bình. Nhà trí thức trẻ Trần Đức Anh Sơn ở Miền Trung bị cách chức khai trừ đảng chỉ vì tìm được quá nhiều bản đồ cổ chứng minh chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa, Hoàng Sa và phổ cập thông tin này trên báo chí. Mục tiêu của chiến lược sáng suốt này là bóp nghẹt tinh thần yêu nước, bảo vệ chủ quyền biển đào của người dân ngay tù trong trứng nước. Đảng vẫn kiên cường với lập trường chiến lược thông minh vĩ đại Ba Không  “Không tham gia các liên minh quân sự và không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không dựa vào nước nào để chống nước khác“ {2}. Bóp chết nội lực, từ chối mọi sự giúp đỡ từ bên ngoài, đảng đã giành độc quyền bày tỏ quan ngại hòa bình với Trung Quốc mặc cho những cột mốc sống ngư dân bị đâm tàu, bị bắn giết. Phản đối lấy lệ, không hề phản kháng Nói nôm na tình huống này giống như anh láng giềng bạo ngược đem súng đạn phương tiện vào khuôn viên nhà đe dọa xây cất và đuổi chủ đi còn anh chủ nhà cao thượng lại tự trói tay, trùm chăn tuyên thệ là nhất định sẽ chỉ kháng cự bảo vệ đất bằng mồm. Đám con cái chủ nhà thì được phát mỗi đứa một cái rọ bịt mồm khi nào có lệnh mới được bỏ rọ ra lên tiếng ê a khóc lóc. Lần này có khác hơn một chút, đỉnh cao trí tuệ đã kêu gọi chung chung trên tầm cao mới là tính quốc tế của sự kiện Trung Quốc gây hấn. Trong phát biểu của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao có đoạn: “Duy trì trật tự, hòa bình, an ninh ở khu vực Biển Ðông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực cũng như cộng đồng quốc tế. Do đó, Việt Nam mong muốn các nước liên quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung này”. Có lẽ đảng đang đứng trên vị thế thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nên kêu gọi chung chung để giải quyết chuyện Biển Đông. Trong khi đó, cùng hoàn cảnh bị khiêu khích, lấn áp như Việt Nam, Tổng thống Philippines đã có thái độ cụ thể hơn nhiều. Tổng thống Rodrigo Duterte kêu gọi Washington gửi tàu chiến đến bảo vệ Philippines trước sự gây hấn của Trung Quốc theo hiệp ước phòng thủ chung giữa hai nước. "Ngay bây giờ, tôi đang kêu gọi Mỹ, tôi đang kích hoạt hiệp ước Mỹ-Philippines. Tôi muốn Mỹ tập trung toàn bộ Hạm đội 7 của họ trước Trung Quốc. Tôi sẽ tham gia với họ, tôi sẽ đưa tàu đến bất cứ nơi nào có chỉ huy hạm đội của Mỹ". Đây không phải lần đầu tiên ông  Rodrigo Duterte đưa ra lời kêu gọi này. Chính phủ tiền nhiệm của Phi đã thực hiện biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế, đã kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về yêu sách đường 9 đoạn độc chiếm Biển Đông và đã thắng kiện. Đây là một tiền lệ quá tốt, vì sao đảng quang vinh của Việt Nam chỉ biết quan ngại mà không thực hiện giải pháp này? Đặc biệt, việc Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam đã diễn ra nhiều ngày trước và cuộc đối đầu giữa lực lượng Cảnh Sát Biển Việt Nam với tàu Trung Quốc đang diễn ra căng thằng thì chủ tịch Quốc hội Việt Nam vẫn lên đường thăm và làm việc với Trung Quốc theo lịch hẹn trước. Trên tầm lãnh đạo quốc gia, trước hành vi xâm lấn của Trung Quốc, bà Kim Ngân phải có sự cân nhắc nhiều giải pháp khác nhau để thể hiện biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế để bảo vệ chủ quyền đất nước và vị thế quốc gia. Bà có quyền và có thể hoãn, từ chối chuyến đi để phản đối hành động của Trung Quốc. Bà có thể di dự và yêu cầu đưa chuyện Trung Quốc vi phạm chủ quyền của  Việt Nam vào chương trình nghị sự hoặc đơn phương tuyên bố lên án hành vi này. Báo Nhân Dân vẫn đưa tin với thái độ xun xoe, nồng nhiệt về chuyến đi “Thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc”. Trong suốt chuyến đi, bà chủ tịch có 300 bộ áo dài ấy hoàn toàn ngậm miệng không biết nói đến hai chữ Biển Đông với những người đồng cấp phía Trung Quốc.{2} Kết quả chuyến đi vẫn là thắng lợi của mối quan hệ hợp tác. Thật khó hiểu, một bên đi cướp đất, một bên bị cướp đất, không đấu tranh bảo vệ mà hợp tác chiến lược toàn diện là hợp tác như thế nào? Biện pháp hòa bình là biện pháp gì? Im lặng dâng hiến cả đất nước thành một quận huyện của Trung Quốc ư? Tiếng Trung sẽ thành quốc ngữ Với những gì đang diễn ra, với những gì báo đảng và quan chức đảng đã thể hiện thì nhận định cho rằng Việt Nam đang chuyển động thoát Trung chỉ là ảo tưởng. Nói Việt Nam ngoại giao đu dây giữa Mỹ và Trung chỉ là nhận xét về bề nổi. Việt Nam chỉ cần tiền của Mỹ, cần xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, cần quy chế ưu đãi của Mỹ nhưng không bao giờ đồng minh chiến lược với Mỹ vì trước sau tình hữu nghị Việt-Trung đời đời bền vững. Việt Nam rộng cửa để giúp Trung Quốc mượn danh núp bóng xuất hàng sang Mỹ thoát lệnh trừng phạt thuế. Việt Nam rộng cửa cho Trung Quốc xây dựng đường cao tốc Bắc Nam, phát triển mạng 5 G như bô xít, như Vũng Án và bao nhiêu dự án khác. Việt Nam sẽ mở nhiều đặc khu để giao đất lâu dài cho Trung Quốc. Biển Đông sẽ là của Trung Quốc, Việt Nam sẽ là quận của Trung Quốc đó là ý đảng. Lòng dân nếu đồng tình thì tốt, không đồng tình sẽ có công an và các thế lực thù địch vô hình giải quyết. Chính phủ chỉ có việc chờ ngày công bố công khai mối quan hệ đồng chí anh em này. Phùng Ngọc Nhạ sai sót mọi chuyện nhưng chỉ giỏi một chuyện đưa tiếng Trung vào chương trình giáo khoa nên yên tâm giữ ghế bất chấp những tiêu cực, xuống cấp của ngành giáo dục. Người Việt thức thời cần nhanh chóng tận dụng cơ hội Bộ trưởng Nhạ đã mở ra. Một ngày không xa tiếng Trung không còn là ngoại ngữ mà sẽ là quốc ngữ. https://nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/40929202-viet-nam-kien-quyet-dau-tranh-bang-bien-phap-hoa-binh-phu-hop-luat-phap-quoc-te.html https://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/01/150129_vn_navy_airforces_china https://nhandan.com.vn/chinhtri/xa-luan/item/40788802-thuc-day-quan-he-doi-tac-hop-tac-chien-luoc-toan-dien-viet-nam-trung-quoc.html https://tuoitre.vn/ong-duterte-keu-goi-my-gui-tau-chien-bao-ve-philippines-truoc-su-gay-han-cua-trung-quoc-2019071810535963.htm Gió Bấc's blog  
......

Chết đâu phải là hết

Đỗ Cao Cường Mấy đời bánh đúc có xương Mấy đời Tàu khựa lại thương dân mình. Tôi không sợ Trung Quốc mạnh, tôi chỉ sợ đồng bào mình ngu. Khi một trận bóng đá giải “ao làng” diễn ra, rất nhiều “nghệ sĩ” cho tới các em học sinh, sinh viên lao ra đường hô to “Việt Nam, Việt Nam” rồi họ ôm nhau khóc, như để khẳng định mình tử tế, yêu nước lắm Nhưng khi Trung Quốc coi Việt Nam là bãi rác không thể tái chế, đầu độc chúng ta hàng ngày, kéo đến xâm lược nhiều lần (số lần xâm lược của tất cả kẻ thù gộp lại cũng không bằng Trung Quốc) mang theo tư tưởng trọng nam khinh nữ, chia rẽ vùng miền, những khoản vay khổng lồ không dám công bố cùng các nhà thầu, công nghệ lạc hậu gây thua lỗ, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng… thì tuyệt nhiên chỉ có vài người khóc. Cái đau đớn nhất không phải là chúng ta bị Trung Quốc xâm lược, cái đau đớn nhất là chúng ta bị Trung Quốc sai bảo, làm theo ý chúng, sự thật che đi, báo chí im lặng, người yêu nước bị đối xử tàn nhẫn, nhiều người đã chết vẫn không hề biết sự thật. Rất nhiều thế hệ người Việt không biết đến sự kiện Gạc Ma, thác Bản Giốc cùng nhiều câu chuyện bệnh hoạn, mất hết tính người như cưỡng hiếp trẻ em, dùng búa đập chết bà già trong cuộc xâm lược biên giới phía bắc của Trung Quốc. Thất bại trong chuẩn bị là chuẩn bị để thất bại, người đưa tin đến chậm vài phút cũng có thể khiến cả dân tộc chết chìm trong biển máu, người miền Trung chết chìm trong lũ. Khi Trung Quốc kéo đến bãi Tư Chính làm loạn, vài tuần sau mới thấy báo đài trong nước loan tin, vậy còn hy vọng gì vào những kẻ nô lệ, đặt lợi ích dân tộc không bằng lợi ích đảng phái? Bãi Tư Chính nằm cách bờ biển Việt Nam khoảng 200 hải lý (1 hải lý = 1.852 m), trong khi cách Trung Quốc trên 600 hải lý, chúng chạy hết dải đất hình chữ S Việt Nam, còn vài trăm hải lý nữa mới tới được bãi Tư Chính thì làm gì có cơ sở để chúng khẳng định chủ quyền. Bãi Tư Chính nằm giáp Malaysia và Brunei, theo luật biển quốc tế bãi này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Việt Nam đang khai thác dầu khí, có quyền chủ quyền và quyền tài phán… Chỉ có những kẻ cướp đê hèn cố tình không hiểu, không từ thủ đoạn nào như Trung Quốc mới nghĩ tới việc xâm lược bãi Tư Chính. Chúng gọi đó là một phần của “lưỡi bò” trong khi chả có cái lưỡi bò nào mà lại chạy hết miền Bắc Việt Nam, miền Nam Việt Nam kéo xuống tận Malaysia rồi mới tới đầu lưỡi. Chỉ có những kẻ cướp mất hết tính người mới nghĩ ra câu chuyện phi thực tế, khốn nạn đến thế này! Tôi cũng đã tới nhiều ngôi làng có nhiều người chết vì ung thư, dị tật do sống cạnh các nhà máy sử dụng công nghệ Trung Quốc. Nếu lãnh đạo nước này còn tiếp tục sử dụng nhà thầu Trung Quốc thì không có gì biện minh cho hành động bán nước. Mong các “nghệ sĩ” nổi tiếng nhờ biết nghe lời, cùng con dân nước Việt hãy che đi những giọt nước mắt cá sấu, giả tạo của mình để hoà vào nỗi đau của dân tộc. Chết đâu phải là hết, đời này còn có đời sau, hãy làm một điều gì đó dù nhỏ nhoi để con cháu các bạn không phải sống cuộc đời nô lệ, để một ngày nào đó chúng không bị lưu vong, lưu vong trong oán hận, lưu vong trên chính quê hương mình.  
......

Báo cáo láo hay che giấu yếu kém

Phạm Nhật Bình| Hoạt động của Quốc Hội Việt Nam là một loại hoạt động chính trị ít được người dân theo dõi nhất, ngoại trừ những lần đưa ra thảo luận, biểu quyết những dự luật mang tính chọc giận đám đông. Tuy được phong hàm rằng “quyền lực cao nhất nước”, Quốc Hội vẫn được người dân đánh giá là một cơ quan trang trí cho một chế độ dân chủ giả hiệu và vô tích sự không hơn không kém. Tính cách vô tích sự ấy được chính Phó Chủ Tịch Quốc Hội Uông Chu Lưu nêu lên trong ngày họp tổng kết kỳ họp thứ 7 để chuẩn bị cho kỳ họp thứ 8 vào cuối năm 2019. Ông Lưu đã than thở rằng “đất nước có nhiều chuyện nóng bỏng nhưng báo cáo vẫn êm ả quá”. Chẳng những êm ả mà còn lạc quan vì các báo cáo tổng kết được các uỷ ban chuyên trách đọc lên nghe rất trơn tru, tốt đẹp không giống với những gì đang diễn ra ngoài xã hội. Những chuyện nóng bỏng mà ông Lưu nói là chuyện gì? Kinh tế và xã hội là hai vấn đề bức thiết trong đời sống hàng ngày của người dân nhưng chưa bao giờ được đề cập đến một vài giòng trong báo cáo của Quốc Hội. Chẳng lẽ chuyện lương bổng công nhân không đủ sống, nhiều gia đình công nhân những ngày cuối tháng chỉ ăn cơm chan canh suông; hay hố cách biệt giàu nghèo không là chuyện nóng? Chẳng lẽ những chuyện lạm thu thuế phí, bất công BOT, giáo dục xuống cấp đều là những chuyện nhỏ không đáng cho các đại diện dân luận bàn? Nhất là quy định chồng chéo của Bộ Luật Đất Đai “sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý” cho phép nhà cầm quyền các cấp nhân danh công ích, trắng trợn thủ tiêu quyền sở hữu tư nhân. Qua vụ Thủ Thiêm kéo dài trên 20 năm vấn đề đất đai luôn luôn là vấn đề gây ra nhiều bất công ngang trái cho người dân nhưng bị Quốc Hội lẩn tránh nêu ra trước diễn đàn. Ngay cả việc tạo ra những luật lệ cần thiết để giải quyết những vấn đề nóng bỏng này cũng bị đẩy lùi, khoán trắng cho chính quyền tha hồ dùng quy định hành chánh bất chấp pháp luật. Trên cả nước không riêng vụ Thủ Thiêm mà còn hàng trăm vụ tranh chấp đất đai mà phần thiệt hại về phía người dân luôn phải gánh chịu. Điều khôi hài là Quốc Hội trong mỗi kỳ họp lại đều đều thông qua những bộ luật không tác dụng gì đến nhu cầu thực tế của người dân. Trong nhiều năm liền người dân đã dài cổ chờ đợi luật biểu tình, luật về quyền lập hội… nhưng tất cả vẫn nằm bất động trong ngăn tủ Bộ Công An và lần này Quốc Hội đã rất hăng say thảo luận và thông qua Luật Phòng Chống Tác Hại Rượu, Bia! Một vấn đề nóng khác như cổ phần hoá để chấn chỉnh kinh tế quốc doanh theo hướng kinh tế thị trường thì đối với Quốc Hội là vấn đề thứ yếu được gác lại năm sau. Tài sản doanh nghiệp nhà nước không được minh bạch hoá trước khi giải tư tạo cơ hội cho tư bản thân hữu chiếm đoạt. Vì thế cổ phần hoá các công ty quốc doanh đã kéo dài hàng chục năm liền đến nay vẫn đang diễn ra ì ạch dưới chiếc bóng của các lợi ích nhóm. Có lẽ đó là một trong nhiều lý do “nhạy cảm” khiến Quốc Hội không muốn đá động tới. Một trong những chuyện “nổi bật” của Quốc Hội trong kỳ họp này là đại biểu mắc bệnh lười. Sự vắng mặt quá nhiều đại biểu trong các buổi họp, đến nỗi Chủ Tịch Kim Ngân phải công khai thừa nhận con số bỏ họp có khi lên tới 100 trên tổng số 500… Thử hỏi đại biểu quốc hội được đảng cử ra, dân nuôi bằng tiền thuế thì ngoài nhiệm vụ đi họp để gật thì họ còn làm gì khác để cuối tháng ngửa tay lấy lương cao. Thật ra, những gì Phó Chủ Tịch Quốc Hội Uông Chu Lưu nêu ra trong phiên họp bế mạc chiều 14 tháng Bảy không có gì mới mà ông chỉ lặp lại những tệ nạn đã có bao đời nay của một cơ quan làm cảnh. Vì là quốc hội của một xứ sở độc tài nên các ông bà đại biểu chỉ biết suy nghĩ như những con robot và nói theo sự cho phép của đảng lãnh đạo. Người ta còn nhớ vào tháng Năm, 2014, khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Cộng tiến vào vùng hải phận thuộc chủ quyền Việt Nam tạo ra những cuộc biểu tình rầm rộ của người dân yêu nước thì cũng chính quốc hội này đã lặng thinh. Lần này, năm 2019 tàu võ trang của Trung Cộng đang diệu võ dương oai ở bãi Tư Chính, liệu Quốc Hội có dám hé môi? Nói cách khác, họ tuy mang danh là đại biểu nhân dân nhưng cũng tự biết khi đảng cho phép nói và làm cái gì thì mới dám nói và làm cái đó. Vì do đảng nặn ra trong mỗi 5 năm một lần mà hầu hết là đảng viên trung kiên đang giữ chức vụ trong hệ thống chính quyền, họ lại càng phải tỏ ra trung thành với đảng để bảo vệ con đường thăng tiến tương lai. Những bất công xã hội, nỗi khổ của dân oan, đất nước mất chủ quyền không phải là mối quan tâm của Quốc Hội vì lẽ dễ hiểu đó chưa bao giờ là mối quan tâm của đảng. Vấn đề an toàn của chế độ và nắm giữ quyền lực muôn đời mới là mối lo “tâm huyết” của các lãnh đạo cộng sản. Vì thế nếu ta gọi báo cáo tổng kết cuối kỳ họp vừa qua của Quốc Hội là báo cáo láo hay chỉ là hành động để che giấu sự yếu kém và lười biếng cũng đúng; cả hai đều mang một ý nghĩa như nhau. Đó là sự coi thường người dân và dư luận, bởi Quốc Hội chỉ quan tâm vào chiếc ghế đại biểu và những gì đảng ban phát. Phạm Nhật Bình  
......

Phải khởi kiện Trung Quốc

TS Nguyễn Ngọc Chu -  FB Nguyen Ngoc Chu Đặng Tiểu Bình đã xổ toẹt lên ý thức hệ Marx Lenin, xua 60 vạn quân tấn công Việt Nam tháng Hai, 1979, rồi đánh chiếm biên giới Việt Nam ròng rã 10 năm trời, cướp đi núi Đất, một nửa thác Bản Giốc, chiếm trọn Ải Nam Quan và cả ngàn km² xâm canh xâm cư thời Cộng Sản. Với Trung Quốc Cộng Sản, không có anh em đồng chí. Ngay trong nội bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc mà chúng tàn sát nhau không thương tiếc, thì nói chi đến đồng chí nước ngoài. Những gương Chủ Tịch Nước Lưu Thiếu Kỳ, Phó Chủ Tịch Đảng Lâm Bưu còn treo trước mặt. Hàng vạn người Trung Quốc Pháp Luân Công bị mổ nội tạng. Hàng chục vạn người Urgu Tân Cương bị âm thầm đàn áp thủ tiêu. Cả ngàn người Hoa trên quảng trường Thiên An Môn bị xe tăng nghiền nát. Hy vọng chi đến 16 chữ vàng. Không phải là mưu toan, mà Trung Quốc Cộng Sản đã chiếm đất và biển đảo của Việt Nam. Và chúng sẽ tiếp tục xâm chiếm nữa. Chúng không phát động chiến tranh, mà đưa giàn khoan đến biển Việt Nam khai thác dầu khí dưới sự bảo vệ vòng trong vòng ngoài của Hải quân Trung Quốc, thì Việt Nam lấy gì mà bảo vệ? Van xin chúng nó là cùng đồng chí ư? Cầu xin chúng nó lấy đại cục làm trọng ư? Lấy 4 tốt và 16 chữ vàng ra làm thần chú ư? Tất cả đều vô dụng. Sau bao nhiêu điện đàm với công hàm, sau cả chuyến đi của bà chủ tịch Quốc Hội, mà Trung Quốc vẫn ngang ngược thăm dò dầu khí ở bãi Tư Chính. Thêm một lần sáng mắt, rằng đồng chí và ý thức hệ Marx Lenin chỉ là cái bong bóng xà phòng, không bảo vệ được biển đảo của Tổ Quốc trước sự xâm lăng của Trung Quốc Cộng Sản. Thêm một lần để hiểu sự tráo trở của đồng chí Cộng Sản Trung Quốc. Thêm một lần để thấy sự cô đơn khi bị đồng chí Trung Quốc Cộng Sản xâm lược. Một lần và vĩnh viễn, vứt bỏ tình đồng chí với Trung Quốc Cộng Sản vào sọt rác, và kiện Trung Quốc lên Liên Hợp Quốc. Có như thế thì mới cản ngăn được sự ngông cuồng của Trung Quốc. Nếu không sẽ tiếp tục bị mất chủ quyền biển đảo vào tay Trung Quốc rồi đắc tội với tổ tiên và muôn đời con cháu.    
......

Chuyện Bãi Tư Chính

Bạch Hoàn   “Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam.   Việt Nam mong muốn các nước liên quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung này”. Phải 13 ngày sau khi tàu Hải Dương địa chất 8 thực hiện thăm dò địa chấn tại Bãi Tư Chính - khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam - người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam mới lên tiếng và báo chí trong nước mới bắt đầu được mở miệng. Phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho thấy, Chính quyền Việt Nam đã khai thác hết các kênh đối thoại chính thức cũng như không chính thức để giải quyết sự việc, nhưng Trung Quốc vẫn không dừng lại hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Đó là lý do cho đến 19-7, Bộ Ngoại giao Việt Nam buộc phải kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực. Nhưng, dù ngoài khơi bão nổi, dù chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, dù những người lính nơi đầu sóng ngọn gió phải căng mình chiến đấu với ngoại bang, nhưng báo chí lại im lặng suốt hai tuần đằng đẵng. Điều đó cho thấy, hai tuần qua, Chính quyền chọn cách âm thầm thực hiện đối thoại với Trung Quốc, đã tự tách ra khỏi dân, đã không dựa vào lòng dân, không dựa vào sức mạnh của Nhân dân khi đối diện với kẻ muốn xâm phạm chủ quyền của đất nước mình. Trong bất cứ tranh chấp nào, dẫu lớn, dẫu nhỏ, dù chỉ dừng lại ở thăm dò, khiêu khích hay là trắng trợn xâm phạm, thì Chính quyền đều có nghĩa vụ phải thông tin cho người dân. Bởi vì, nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra, thì người dân phải nhận lãnh hậu quả. Bởi vì, nếu tài nguyên quốc gia bị cướp đoạt, trời biển bị xâm lấn, thì mất mát nào, hi sinh nào cũng là của Nhân dân. Vì lẽ đó, Nhân dân có quyền được biết. Và nhân dân cũng phải có trách nhiệm với từng tấc đất biên cương, từng đầu sóng ngọn gió của đất nước mình. Đất nước này là của Nhân dân. Biển đảo này cũng là của Nhân dân. Nhân dân cần biết chuyện gì xảy ra ngay khi ngoại bang gây hấn, chứ không phải sau hai tuần lễ mới được biết biển khơi đang có gió bão. Chỉ có Nhân dân đồng lòng đoàn kết mới cho Chính quyền sức mạnh để đuổi được kẻ ngoại bang xâm lấn. Chính quyền nào cũng vậy, nếu không dựa vào dân ắt sẽ chuốc lấy thất bại. Chế độ nào cũng vậy, nếu không dựa vào dân ắt sẽ có ngày suy tàn. Suy cho cùng, Chính quyền được lập ra để thực hiện ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, chứ không phải Nhân dân lẽo đẽo làm theo chỉ thị của thiểu số người. Nếu Nhân dân phải thụ động theo ý chí của thiểu số nắm giữ quyền lực, thì đó là một triều đại phong kiến, chứ không phải Nhà nước pháp quyền.  
......

Sự hình thành và cái chết của một Viện Nghiên cứu

Các thành viên IDS: (Từ phải sang) Phạm Chi Lan, Hoàng Tuỵ, Tương Lai, Việt Phương, Trần Đức Nguyên, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Lê Đăng Doanh Nguyễn Đình Cống  -  (bản có hiệu đính của báo Tiếng Dân) Nhân dịp tiễn GS Hoàng Tụy về Trời, xin kể chút ít về Viện Nghiên cứu Phát triển, viết tắt là IDS (Institutes of Development Studies), mà ông là Chủ tịch Hội đồng Viện. Đó là một Viện nghiên cứu tư nhân, không nhận lương và bất kỳ một trợ cấp nào của Nhà nước và không chịu sự lãnh đạo của ai cả. GS Hoàng Tụy Hàng trăm nhà khoa học, trí thức, học trò đã đến viếng, tiễn đưa tang lễ Giáo sư Hoàng Tụy Viện có 16 thành viên. GS Hoàng Tụy được bầu làm Chủ tịch Hội đồng viện. TS Nguyễn Quang A làm Viện trưởng. Các thành viên còn lại gồm: Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Phan Đình Diệu, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm Duy Hiển, Vũ Quốc Huy, Tương Lai, Phan Huy Lê, Nguyên Ngọc, Trần Đức Nguyên, Trần Việt Phương, Nguyễn Trung, Vũ Kim Hạnh, Huỳnh Sơn Phước. Viện được thành lập vào tháng 9 năm 2007, theo Giấy phép hoạt động của Sở Khoa học Hà Nội. Mục đích chính của Viện là Nghiên cứu phương pháp luận xây dựng chiến lược kinh tế xã hội.Theo TS Nguyễn Quang A, một trong những mục đích được đặt ra ngay từ khi thành lập Viện, đó là “đào xới vấn đề lên, khuấy động được thành một phong trào, để người dân, đặc biệt các trí thức trẻ có thể hiểu và cùng tham gia là một việc rất quan trọng. Nếu những người có trách nhiệm hoạch định chính sách lắng nghe hay tham khảo những kết quả thì rất tốt, còn nếu không, chúng tôi cũng không vì thế mà buồn. Chúng tôi mong tham gia phản biện, cảnh báo. Chúng tôi không đặt mục tiêu họ nghe mình bao nhiêu“. Trong 2 năm tiếp theo, Viện đã có nhiều hoạt động khoa học khá nổi tiếng, nghiên cứu nhiều lĩnh vực kinh tế và xã hội VN, đặc biệt là vấn đề giáo dục Viện đã có những kiến nghị rất khoa học. Viện được sự đồng tình, cổ vũ của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhưng gặp sự phản đối kịch liệt của TBT Nông Đức Mạnh và nhiều người trong Bộ Chính trị ĐCSVN. GS Tương Lai cho biết: Mạnh gọi điện cho Hà Nội hoạnh hoẹ: “Ai cho phép thành lập viện nghiên cứu tư nhân này?” Khi được trả lời là chẳng ai cho phép cả mà do Luật Khoa học và Công nghệ đã ban hành về quyền đăng ký lập một tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ. Kẻ chỉ thạo cầm rìu chặt cây kia ráo hoảnh hạ lệnh: “Nếu là Luật thì sửa Luật”! Thế là người ta ra quyết định bắt giải tán Viện. Ngày 24-7-2009 Nguyễn Tấn Dũng với tư cách là Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg, ban hành danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ để dẹp Viện IDS. Quyết định 97 có hiệu lực kể từ ngày 15-09-2009. GS Hoàng Tụy, TS Nguyễn Quang A và các thành viên không chấp nhận được nỗi nhục bị người ta bắt giải tán nên đã tuyên bộ tự giải thể vào ngày 14 tháng 9 năm 2009, trước khi quyết định 97 có hiệu lực một ngày. Viện IDS tự giải thể trước sự ngỡ ngàng của các nhà khoa học trong nước và trên thế giới, là một tổn thất to lớn của đất nước. Nó chứng tỏ sự thiếu trí tuệ và kiêu ngạo của lãnh đạo ĐCS mà không chỉ riêng một mình Nông Đức Mạnh phạm phải. Nguyễn Đình Cống 
......

Phải kiện Trung Quốc nhưng kiện cái gì, như thế nào và khi nào

Tô Văn Trường - Boxit.vn| Việt Nam chúng ta tuy có đông dân, nhưng kinh tế, và nhiều mặt còn chưa phù hợp với vai trò mà chúng ta nên có trong một thế giới sôi động ngày nay. Người làm chính trị có thể coi như lái thuyền giữa biển khơi, sự tỉnh táo, linh hoạt, là không thể thiếu. Sự kiện giàn khoan khổng lồ Haiyang Shiyou (HS) 981 của Trung Quốc ngang nhiên đặt vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam hơn tháng này kèm theo các hành động ngang ngược tấn công bằng vòi rồng phun nước, đâm thủng các thuyền chấp pháp và ngư dân của ta gây nên làn sóng phẫn nộ phản đối của nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Có nhiều ý kiến khác nhau về kiện hay không kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế và thời điểm kiện cần chờ ý kiến của Bộ Chính trị? Kiện Trung Quốc, được là ai cũng biết Việt Nam dám phản đối. Mất là mất cơ hội xác định rõ hướng đi với dân Việt và nước ngoài Việt Nam sẽ làm gì nếu Trung Quốc đưa tiếp giàn khoan vào những nơi khác. Người ta chỉ thấy Việt Nam không biết mình sẽ làm gì, thậm chí người ta còn thấy sự mất đoàn kết trong lãnh đạo. Là con dân nước Việt, ai cũng đau đáu mối họa cho đất nước. Vấn đề kiện hay không kiện là sự quan tâm lớn của cả trong và ngoài nước. Phát biểu về những cái này, nếu không hợp với xu thế chung, sẽ dễ bị “ném đá” vì lòng yêu nước là sức mạnh vô địch, nhưng nếu không hướng đúng, không sử dụng đúng thì chủ nghĩa dân tộc sẽ thành con dao hai lưỡi giống như vụ Bình Dương – Hà Tĩnh vừa qua. Không có một Nhà nước nào lại từ bỏ chủ quyền của mình một cách dễ dàng, chịu lệ thuộc vào nước khác cả. Nhà nước Việt Nam cũng đã chuẩn bị cho các giải pháp từ nhiều năm nay cho dù còn có nhiều lúc chúng ta chủ quan, “nước chưa đến chân chưa nhảy” hay làm chưa đạt được chất lượng mong muốn. Điều này xảy ra trong cả quân đội khi không tận dụng được thời gian để trở thành chính quy hiện đại, xảy ra trong cả nền kinh tế của chúng ta, khi không đa dạng hóa bạn hàng, không cổ phần mạnh các doanh nghiệp chuyển sang cơ chế thị trường. Sử dụng giải pháp pháp lý Sử dụng giải pháp pháp lý là một ứng xử văn minh mà các quốc gia phương Tây nơi có nền luật pháp vững chắc lâu đời thường cậy đến. Với châu Á, từ chỗ coi các Tòa án quốc tế là sản phẩm của phương Tây, sau nhiều cải tổ của chính Tòa, bổ sung thêm các thẩm phán từ các quốc gia nhỏ khác, nên các nước châu Á cũng có xu hướng sử dụng Tòa trong một số trường hợp như Thái Lan và Campuchia qua vụ kiện đền Preah Vihear. Mailaysia và Indonesia vụ đảo Sipadan, Lipadan. Malaysia và Singapore vụ đảo đá trắng, v.v. Các nước đưa nhau ra Tòa với điều kiện là Tòa phải có thẩm quyền trên cơ sở các quốc gia cùng chấp nhận. Tòa án Luật biển có tiến bộ trong Phụ lục VII đưa thêm một cơ chế Quốc gia có thể đơn phương đưa vụ việc ra Tòa trong những vấn đề liên quan đến giải thích và áp dụng UNCLOS. Các vụ việc trên thế giới khá đa dạng, liên quan đến chủ quyền lãnh thổ lại càng phức tạp. Hầu hết những vụ như vậy lại đòi hỏi thiện chí thực hiện các phán quyết của Tòa. Thông thường phán quyết của Tòa chỉ tạo cơ sở để giải quyết vấn đề chứ không thể giải quyết hết được mà cần đến giải pháp tổng hợp chính trị, ngoại giao, pháp lý, quân sự. Điều bất thường là các cường quốc đều có lịch sử bất hợp tác, không tôn trọng phán quyết của Tòa như Mỹ trong Mỹ/Nicaragua, Pháp trong các cuộc thử vũ khí hạt nhân... và đều rút khỏi tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của tòa. Điều đó, giải thích Trung Quốc, nước vẫn coi mình bị các cường quốc phương tây bắt nạt, bị đối xử bất bình đẳng, sẽ khó chấp nhận thẩm quyền của Tòa. Thủ tục và nội dung Các vụ kiện ra Tòa sẽ phải giải quyết vấn đề thủ tục và nội dung. Thường Tòa sẽ tổ chức hai phiên riêng biệt. Phiên thứ nhất về thủ tục, các bên sẽ phải đưa ra lý lẽ chứng minh, Tòa có thẩm quyền còn việc quyết định có hay không là do Tòa. Phiên thứ hai về nội dung. Toà sẽ chỉ có thẩm quyền xem xét đúng câu hỏi mà các bên yêu cầu với điều kiện phải rõ ràng, không ảnh hưởng đến quyền lợi bên thứ ba và phán quyết của Tòa chỉ có hiệu lực với các bên chấp nhận thẩm quyền, không có đối với bên thứ ba. Tuy nhiên, phán quyết của Tòa cũng có thể tạo ra một “opinio juris” tạo xu thế trong các phán xử các vụ tương tự sau này và dễ định hướng cho công luận. Trong một số trường hợp, Tòa không thể quyết định có thẩm quyền hay không, nếu không xem xét nội dung. Tòa sẽ phải kết hợp cả hai phiên để xem xét. Đây có thể là trường hợp của Biển Đông. Điều kiện Rất tiếc là nhiều người không hiểu để kiện thì Việt Nam phải chứng tỏ rằng mình đã làm hết cách trong việc giải quyết song phương. Đấy là yêu cầu của Luật Biển. Khi xem xét vấn đề thủ tục tức xác định thẩm quyền. Điều kiện đầu tiên để sử dụng công cụ pháp lý là phải sử dụng hết các hình thức hoà bình khác như đàm phán, trung gian hoà giải, uỷ ban điều tra... nếu các biện pháp này bế tắc thì mới dùng đến Tòa. Vì vậy, có những vụ Tòa đã trả lại hồ sơ hoặc khuyến nghị các bên áp dụng biện pháp trung gian hòa giải. Điều kiện thứ hai là các bên phải đồng ý đưa ra Tòa thì Tòa mới có thẩm quyền và chỉ xét đúng trong phạm vi câu hỏi các bên thống nhất đưa ra. Một khi ra Tòa là nhằm mục đích giải quyết tranh chấp nhưng đằng sau của các bên đều muốn Tòa chứng minh mình thắng. Rất ít nước nghĩ đến mình thua. Nhưng điều kiện của Tòa thì rất khắc nghiệt, dù được hay không các bên đều phải chấp nhận không bác bỏ. Đây là điều cả Trung Quốc và Việt Nam đều phải cân nhắc vì lòng tự hào dân tộc cao và chưa có truyền thống văn hóa pháp lý như phương Tây. Vì vậy, việc cân nhắc thời điểm kiện, câu hỏi kiện, chọn tòa kiện, hệ quả kiện, so sánh tương quan, thực thi phán quyết... là gánh nặng đối với những người chịu trọng trách với đất nước. Trong thời gian vừa qua, hình như dư luận chỉ muốn nói đến kiện và tin tưởng đương nhiên ta thắng, địch thua mà chưa đề cập đến tất cả các khía cạnh của các câu hỏi trên, tạo một áp lực lớn cho lãnh đạo. Phải kiện và 5 khả năng lựa chọn pháp lý Rõ ràng đến nay, các các biện pháp khác không mang lại kết quả, chúng ta phải dùng biện pháp pháp lý tức là kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế. Việc chuẩn bị ra đòn, phải thực sự bài bản, kín kẽ, thuyết phục. Đi vào cụ thể, chúng ta có 5 khả năng lựa chọn pháp lý: Kiện để Trung Quốc rút giàn khoan HS 981 Kiện Trường Sa tham gia với Philippines Kiện chủ quyền Hoàng Sa Kiện chủ quyền Trường Sa    5. Kiện chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa Để chọn tòa ta có Tòa án CLQT La Hay, Tòa án trọng tài thường trực quốc tế, Tòa án luật biển, Tòa trọng tài, Một số luật sư còn nói đến Tòa trọng tài thương mại trong nước đòi bồi thường thiệt hại. Nhưng Tòa này chỉ có thẩm quyền với các vụ việc xảy ra trên lãnh thổ quốc gia. Vùng đặc quyền kinh tế không phải là lãnh thổ quốc gia, đó là một vùng biển có quy chế đặc thù (lưỡng tính) trong đó quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về tài nguyên thiên nhiên, các quyền tài phán về thiết lập các đảo nhân tạo, công trình trên biển, về bảo vệ môi trường biển, về nghiên cứu khoa học biển, trong khi các quốc gia khác có các quyền tự do biển cả về đi lại, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Vì vậy, một số báo chí nói đó là vùng biển của Việt Nam hay Trung Quốc hàm ý “ownship” chưa thật chính xác. Cột nước không thuộc chúng ta mà là phần biển cả trước kia thuộc toàn bộ cộng đồng quốc tế. Ta chỉ có một số quyền, quan trọng nhất là quyền chủ quyền trong đó để đổi lại ta cũng phải tôn trọng các quyền tự do khác của các nước. Để đơn giản ta chỉ còn có Tòa La Hay và Tòa án luật biển mà thẩm quyền đã được trình bày ở trên. Kiện riêng vụ HS 981 do Trung Quốc đơn phương triển khai giàn khoan trong vùng tranh chấp, làm thay đổi hiện trạng pháp lý, đe dọa hoà bình và an ninh, đề nghị trong lúc toà xem xét toà có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp phòng ngừa yêu cầu rút giàn khoan. Không tính đến Hoàng Sa thuộc ai và có quy chế đảo như thế nào (có 12 hải lý hay 200 hải lý) thì địa điểm đặt giàn khoan đều nằm trong vùng overlapping giữa bờ biển Việt Nam (130 hải lý) và đảo Hải Nam (180 hải lý). Cả Trung Quốc và Việt Nam vì những lý do riêng đều tuyên bố đây không phải là vùng tranh chấp. Nếu thực hiện một đường trung tuyến giữa bờ biển Việt Nam và Hải Nam thì điểm giàn khoan nằm bên này trung tuyến phía Việt Nam. Hành động đơn phương mang giàn khoan sang quá đường trung tuyến vì vậy được coi là khiêu khích. Các ủng hộ của thế giới cũng vì cái lớn là hòa bình ổn định, ủng hộ sự kiềm chế của Việt Nam nhưng không có ủng hộ nào về chủ quyền thuộc ai cả. Đó là điều các báo chí khai thác một phía, còn lãnh đạo phải hiểu rõ mới ra quyết sách đúng được. Kiện HS 981 ít nhất Việt Nam phải hội tụ 3 điều kiện Thứ nhất chứng minh Việt nam đã bị tổn hại những gì? Giàn khoan di động, tàu thuyền kể cả quân sự đều được hưởng quyền tự do hàng hải. Chỉ khi bắt đầu khai thác thực sự hay tàu cá bị đâm như hôm 4/6 mới có đủ bằng chứng tổn hại vật chất. Khác với Philippines, họ bị mất Scarborough thực sự nên là cớ để kiện Trung Quốc. Có ý kiến cho rằng đưa ra Tòa yêu cầu Tòa tuyên bố biện pháp ngăn ngừa trước khi xét đơn nghĩa là rút giàn khoan giữ nguyên trạng. Điều kiện là bên yêu cầu phải chứng minh được tính cấp thiết của biện pháp phòng ngừa. Trung Quốc rất giảo hoạt chỉ giới hạn ở đâm va chưa có đổ máu chiến sự. Cuộc đấu tranh của Việt Nam ở đây là nhằm mục đích bẻ gãy ý chí của Trung Quốc không cho kéo giàn khoan vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Tư Chính hay 9 lô miền Trung. Nhưng ra Tòa, không thể nói ý định chính trị vì đây là vụ kiện pháp lý mà phải chứng minh có tổn hại vật chất. Thứ hai là thời gian xem xét của Toà nhanh cũng một vài tháng. Vụ Philippines kiện Trung Quốc, tháng 2 năm 2013 đưa đơn ra Tòa đến 30/3/2014 nộp bản memoire, Tòa yêu cầu Trung Quốc nộp bản phản bị vong lục trình bày quan điểm của mình trước ngày 15/12 nghĩa là mở cho Trung Quốc tham gia nhưng Trung Quốc không tham gia. Có nghĩa là thủ tục một vụ kiện từ 18-22 tháng, Tòa mới bắt đầu xét phiên có thẩm quyền hay không. Giàn khoan có thời hạn hoạt động theo công bố 15/8/2014 lúc đó tàu và giàn khoan đã rút, Toà có thể nói đối tượng kiện không còn nên hủy vụ kiện (giống như trong vụ thử vũ khí hạt nhân 1974 giữa Pháp, Newzeland, Úc). Khi ta làm xong hồ sơ thì cũng là thời điểm họ rút. Khi đó Trung Quốc đương nhiên cho rằng không còn đối tượng xem xét nên bác đơn. Nếu kiện Việt Nam phải kiện ngay từ những ngày đầu, song lúc đó lại vướng phải điều kiện thứ 3 chưa hoàn thành. Thứ ba là ta phải chứng minh đã sử dụng hết các biện pháp đàm phán hoà bình. Hiện Trung Quốc rất xảo trá, họ không dồn đến cùng vẫn nói là sẵn sàng đàm phán nhưng lại không chịu nhận đàm phán với ta. Mức giao thiệp hai bên mới ở mức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, còn chưa đến mức Thủ tướng hay Tổng bí thư. Việt Nam và Trung Quốc lại còn Thỏa thuận nguyên tắc về các vấn đề trên biển mới ký 2012 trong đó thỏa thuận sẽ đàm phán song phương để giải quyết các bất đồng đối với các vấn đề song phương, đàm phán đa phương đối với các vấn đề đa phương. Ngoài ra, cũng phải tính đến khả năng Trung Quốc đưa lý luận vu cáo ta sử dụng lực lượng quân sự vì cảnh sát biển hiện thuộc Bộ Quốc phòng, nếu nó được tách ra là một lực lượng dân sự như những nhà phác thảo Pháp lệnh Cảnh sát biển 1998 ban đầu dự tính thì tốt hơn.  Toà cũng có thể khuyến cáo quay về thủ tục hoà giải bắt buộc nghĩa là hai bên đàm phán quay lại từ đầu.  Đòn tấn công của Trung Quốc Điều cần lưu ý  là tại sao phải sửa soạn cẩn thận, tức là phải chấp nhận những gì đã thật sự xảy ra và có phương pháp đối phó. Về kiện chủ quyền, Việt Nam có nhiều điều phải lo, bởi vì Trung Quốc có nhiều nguồn tài liệu chứng tỏ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nhường Hoàng Sa cho Trung Quốc. Những gì Trung Quốc nói hôm nay, họ đã đăng trong tài liệu của họ năm 1980, trên Beijing Review (lúc đó là tờ báo chính thức duy nhất của Trung Quốc bằng tiếng nước ngoài) và được lặp lại ở nhiều nơi khác, có thể coi ở đây: http://www.marxists.org/subject/china/peking-review/1980/PR1980-07.pdf Tiếng Tàu gọi Hoàng Sa là Xisha (Tây Sa) và Trường Sa là Nansha (Nam Sa). Những điểm chính trong tài liệu trên: - Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng in cả trên báo Nhân Dân (Bản đăng này đã có trên internet). - Báo Nhân dân VN đăng luật về hải phận của Trung Quốc. - Các phát biểu của ông Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Ngoại giao VN  và một cán bộ khác về Hoàng Sa/Trường Sa là của Trung Quốc trong cuộc họp ở Hà Nội. - Bản đồ World Map của Việt Nam (1960) do cục Bản đồ (thuộc Bộ Quốc phòng VN) xuất bản ghi Hoàng Sa/Trường Sa bằng tiếng Tàu và đóng ngoặc là của Trung Quốc. - Bản đồ World Atlas năm 1972 của Văn phòng Thủ tướng ghi Hoàng Sa/Trường Sa bằng tiếng Trung (Có in lại trong tạp chí này). - Sách giáo khoa Địa lý lớp 9 năm 1974 do Bộ Giáo dục xuất bản, ghi Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc (đã được Trung Quốc mới đây chụp và đưa lên internet). Và họ lý luận là cho đến 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc. Với những tài liệu như thế thì khó lòng bác bỏ được họ về lập trường của VNDCCH.  Ngoài ra có thể có những tài liệu quan trọng khác mà Trung Quốc chưa đưa ra. Để phản bác thì phải chấp nhận: - Nước có hai quốc gia trước năm 1975: VNDCCH và VNCH. - VNCHXHCNVN là nước kế thừa, không cần phải thừa kế hiệp định/lời hứa nhường lãnh thổ. Bài viết của TS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt “Công ước Kế tục quốc gia đối với Hiệp ước 1978”  là theo hướng này. Nhưng họ chỉ là chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra vấn đề chứ còn lập luận đứng vững hay không phải cần chuyên gia thật sự về luật này và các luật quốc tế khác. Kiện HS 981 chỉ là tình huống - lâu dài phải kiện đường lưỡi bò Kiện HS 981, Việt Nam có thể đạt được thắng lợi để tuyên truyền mục đích chính nghĩa về Việt Nam nên Trung Quốc sợ không dám ra toà, động viên được nhân dân chung sức một lòng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Nhưng kiện chỉ để Trung Quốc rút giàn khoan HS 981 thì là mục tiêu quá hẹp. Việt Nam cũng phải có biện pháp phương án lường trước các đòn thù xấu chơi của họ nhất là trong lĩnh vực kinh tế . Việt Nam cũng phải chuẩn bị cả những tình huống nảy sinh tiếp theo, những cái ta không mong muốn như Toà sẽ phê phán cả Việt Nam và Trung Quốc, xét không chỉ công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng mà cả các ứng xử tiếp theo như báo Nhân Dân, Bản đồ của Cục bản đồ, sách giáo khoa trong quá khứ, v.v. mà ta đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc. Đó là một suy nghĩ văn minh nhưng với công chúng thì chưa hẳn đã thông. Bây giờ Liên Hiệp Quốc đứng ra giúp đàm phán thì Việt Nam phải nhanh chóng hoan nghênh. Nhưng Liên Hiệp Quốc không có trách nhiệm giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ mà chỉ khuyến cáo hai bên đàm phán. Điều đó có nghĩa là còn có những biện pháp hòa bình khác mà các bên chưa tận dụng hết. Và ngay từ giai đoạn thủ tục, nếu ta không hội đủ ba điều kiện thì việc kiện HS 981 chưa chắc đã là một điều hay khi Tòa tuyên không có thẩm quyền. HS 981 là một hiện tượng, còn đường lưỡi bò 9 đoạn mới là lâu dài. Chẳng lẽ hôm nay họ kéo đến đây ta kiện, ngày mai họ kéo đến kia ta lại kiện, sẽ dễ bị nhàm. Kiện là một giải pháp pháp lý cần thiết và đối tượng kiện phải là đường lưỡi bò. Chúng tôi cho rằng phải kiện, còn khi nào nộp đơn thì phải sửa soạn kỹ lưỡng. Nếu không tham gia sẽ bị cho là bỏ lỡ cơ hội. Không tham gia sẽ đánh mất lòng dân và khó giải thích với cộng đồng quốc tế. Có ý kiến cho rằng không tham gia thì nếu sau này sử dụng biện pháp pháp lý thì Tòa sẽ cho rằng anh không có quan tâm nên coi như đã từ bỏ. Tuy nhiên, khi xem xét dù các bên vắng mặt Tòa cũng phải chú trọng đến quan điểm của họ. Chỗ này sẽ phải chờ đến bản lĩnh của lãnh đạo và các tính toán về chính trị, kinh tế chứ không đơn thuần là pháp lý nữa. Mặt thuận: VN có cơ sở pháp lý lâu đời, kêu gọi được sự ủng hộ quốc tế, đáp ứng được tình cảm nhân dân trong ngoài nước và quốc tế, tài liệu chuẩn bị những năm qua có thể tương đối. Tuy nhiên cũng cần điểm qua khả năng và các hạn chế để có phương án đối phó. Điều khó nhất là Trung Quốc không chấp nhận ra Toà. Sẽ có hai nội dung kiện a) Về chủ quyền b) Về các quyền sử dụng biển theo UNCLOS. Nếu Trung Quốc chấp thuận ra Tòa Trung Quốc có hạn chế chiếm nhóm phía Đông Hoàng Sa bằng vũ lực. Việt Nam có lịch sử quản lý Hoàng Sa mạnh từ thế kỷ XVII đến 1858. Từ 1858 đến 1925 khi Pháp quay lại công nhận chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa là một khoảng lặng. 1946 sau chiến tranh Pháp quay lại chiếm nhóm phía đông còn Tưởng Giới Thạch trước đó ở nhóm Tây. 1956 Trung Quốc đuổi Tưởng Giới Thạch chiếm phía Tây cả VNCH và VNDCCH không có ý kiến!? Từ 1956 đến 1974 mới có sự lên tiếng từ VNCH và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong thời gian 1956 đến 1975 VNDCCH cũng có một số động thái không có lợi như đã nói ở trên. Nếu Tòa có thẩm quyền, không phụ thuộc mong muốn các bên, theo các nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng sẽ có những khả năng sau: 1. Toà tuyên có lợi cho cả hai bên. Trung Quốc trả lại nhóm phía Đông đánh chiếm bằng vũ lực cho Việt Nam. 2. Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng vùng biển xung quanh sử dụng chung như trường hợp của Na uy và Island sau Thế chiến II. 3. Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng quần đảo chỉ có vùng biển hạn chế. 4. Quần đảo thuộc Trung Quốc có đủ đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. 5. Quần đảo hoàn toàn thuộc Việt Nam. Trong trường hợp TQ từ chối thẩm quyền về xét xử chủ quyền lãnh thổ VN buộc phải lựa chọn Tòa nào có thể thụ lý vụ kiện khi chỉ có một bên đơn phương đưa ra và chỉ về sử dụng vùng biển. Trung Quốc cũng không có trách được vì họ gây hấn HS 981 trước. Không thể nói VN theo Mỹ vì VN đã cố gắng chứng minh mong muốn đàm phán, thậm chí còn nhờ đến cả Liên Hiệp Quốc, điều mà Philippines chưa làm hết. Chỉ có toà trọng tài luật biển ITLOS với Phụ lục VII cho phép một bên đưa ra và câu hỏi chỉ là giải thích và áp dụng công ước luật biển. Đây là cách Philippines áp dụng. Trung Quốc đã bảo lưu các vụ kiện liên quan đến chủ quyền, phân định theo Điều 298. VN có thể áp dụng Điều 279 về hòa giải bắt buộc nhưng cũng sẽ khó khăn. Vụ HS 981 nếu đơn phương đưa giàn khoan vào vùng biển tranh chấp là hành động đáng bị lên án. Muốn xác định vùng tranh chấp lại phải giải quyết vấn đề chủ quyền. VN không từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa còn Trung Quốc cho rằng Hoàng Sa thuộc họ không có tranh chấp. Vị trí giàn khoan cách Lý Sơn 120 hải lý, cách Hải Nam 180 hải lý tạo thành vùng chồng lấn. Còn nếu Phú Lâm có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thì khoảng cách 80 lý. Vì vậy Trung Quốc cho rằng nếu Hoàng Sa thuộc họ vùng biển giàn khoan thuộc họ. Tuy nhiên, Trung Quốc có điểm yếu sử dụng vũ lực chiếm Hoàng Sa phi pháp nên Việt Nam không chấp nhận. Ngoài ra, còn vấn đề quy chế đảo đá. Triton chắc Toà sẽ cho chỉ có 12 hải lý. Nhưng Phú Lâm từ thời Pháp đã có người sinh sống nên dễ có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nếu giả thiết đảo không thuộc VN (đây là điều không muốn nhưng chỉ nêu ra để tính), đảo sẽ có một phần hiệu lực 1/4, 1/3, 1/2... đường phân định thì vị trí giàn khoan có thể rơi vào phần đường trung tuyến phía Việt Nam (Cái này phải có sự kết hợp giữa chuyên gia Luật biển và chuyên gia bản đồ để tính toán. Đây là điều công chúng cũng ít phát biểu đến). Các vấn đề này cuối cùng vẫn quay lại chủ quyền và Tòa không có thẩm quyền. Toà chỉ sử dụng Điều 279 khi có khác biệt về giải thích và áp dụng các bên sẽ quay về áp dụng Phụ lục II hoà giải bắt buộc, tức các bên lại ngồi đàm phán. Theo quan điểm luật quốc tế và định nghĩa quốc gia phải hội đủ 4 yếu tố: lãnh thổ, dân cư, chính quyền và khả năng chủ thể thì dù về mặt chính trị các bên có tranh cãi Nam Bắc là một mối, sự tồn tại de facto VNDCCH và VNCH trong một hoàn ảnh đặc biệt là điều khó có thể phủ nhận. Công ước này bàn về các trách nhiệm và nghĩa vụ kế thừa giữa hai quốc gia trong các mặt hiệp định, vay nợ, lưu trữ... nhưng vấn đề biên giới lãnh thổ không thuộc diện điều chỉnh của Công ước. Năm 1976 Quốc hội đã thông qua bầu cử thành lập CHXHCNVN trên cơ sở VNDCCH và Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam là bên thừa kế các vấn đề lãnh thổ của cả hai thực thể trước. Vấn đề ở đây lại là “bên thắng cuộc” như mọi người ngầm hiểu là VNDCCH trước kia lại có lập trường “thụ động” trong các tuyên bố chủ quyền. Tòa sẽ cho phép CHXHCNVN chọn lấy những gì tốt nhất cho mình hay phải kế thừa cả mặt tích cực và tiêu cực của những hành động trong quá khứ. Đâu là thời điểm kết tinh tranh chấp… Đó là những vấn đề rất khó tiên lượng Tòa sẽ phán quyết thế nào. Trường hợp kiện Trường Sa thì Tòa có thể gộp vụ kiện của Philippines với vụ kiện của Việt Nam do có cùng đối tượng kiện là đường lưỡi bò. Kiện cả Hoàng Sa - Trường Sa cũng có những vấn đề tương tự Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng Trung Quốc có thể tính đến việc rút khỏi UNCLOS. Làm vậy họ cũng mất uy tín nhưng họ sẽ bất chấp. Lãnh đạo phải sáng suốt lựa chọn Chuẩn bị tốt cho các vụ kiện Việt Nam cũng phải thống nhất nội bộ về quy chế pháp lý của đảo và đường cơ sở phù hợp với Công ước luật biển. Ngoài ra, khi quyết định, không chỉ đơn thuần pháp lý mà phải hiểu pháp lý là một vũ khí, một biện pháp nhằm tác động tới cái đích cuối cùng là chính trị. Bàn cờ chính trị thế giới đang thay đổi với sự đi lên của Trung Quốc, sự đi xuống hay ngang của Mỹ, sự trở lại của Nga. Biển Đông đang dần trở thành vũ đài giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc. Ai cũng muốn độc tôn và lôi kéo liên minh. Hiện Việt Nam đang vất vả chống Tàu. Sắp tới nếu Mỹ, Nhật, Philippines đồng ý thành lập một liên minh chống Trung Quốc thì Việt Nam có tham gia không? Nếu xảy ra chiến sự thì họ sẽ làm gì, sẽ giúp vũ khí để Việt Nam chiến đấu? Lịch sử cho thấy mỗi khi Việt Nam nghiêng về một cường quốc nào thì chính Việt Nam phải chịu biết bao đau thương, mất mát. 1954-1975 chúng ta tự hào trên tuyến đầu của CNXH chống Mỹ, 1979 Việt Nam ký Hiệp định liên minh với Nga và chịu trận trên biên giới Việt-Trung. VN đồng thời phải giải quyết hai yêu cầu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để tăng cường tiềm lực bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Làm thế nào để thoát thế kẹt giữa hai siêu cường?. Một quyết định dựa trên cân nhắc đầy đủ các thông tin, tình thế, vận mệnh dân tộc buộc những người lãnh đạo phải sáng suốt lựa chọn. Nhìn ra bên ngoài, dù không ở trong tình trạng cấp thiết như VN nhưng Mailaysia đã xử lý rất tốt trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Malaysia vừa kiên quyết với Trung Quốc vừa công nhận vai trò đi lên của Trung Quốc nhưng đó phải là sự đi lên với trách nhiệm của một cường quốc, chứ không phải là kẻ lớn bắt nạt nước bé. Trong khi chờ quyết định kiện, cũng nên thấy VN đã hành động đúng khi chỉ cho cảnh sát biển và kiểm ngư ra đấu tranh tuyên truyền buộc Trung Quốc rút khỏi giàn khoan. Trong những ngày đầu tiên tàu Kiểm ngư VN còn dùng súng nước bắn trả nhưng những ngày sau VN đã xác định chỉ dùng biện pháp hòa bình. Ngoại giao VN đã có những hoạt động đáng kể, dù hai bên đã cáo buộc nhau lên Liên Hiệp Quốc, đều đã tung ra các lập luận, bằng chứng của mình. Có thể coi gần như một cuộc tập dượt kiện nhau ra Tòa. Sự kết hợp chính trị, ngoại giao, pháp lý và thực địa là một giải pháp tốt. VN đã lựa chọn chiến thuật, cách đối phó phù hợp với lực của mình, lấy yếu chọi mạnh, lấy nhàn hạ chọi kẻ nôn nóng. Vụ HS 981 này, VN cần kiên trì quấy đảo. Trung Quốc sẽ không rút ngay vì sợ mất thể diện, trừ khi có điều kiện bất khả kháng như bão hoặc họ tuyên bố hoàn thành mục tiêu trước thời hạn. Đẻ lâu họ cũng mệt mỏi vì chi phí giàn khoan và hơn 130 tàu là rất lớn dù họ giàu. Họ sẽ thay đổi chiến thuật, sử dụng tàu cá vỏ sắt nhiều hơn để thay thế. Việt Nam kiên trì thực địa kết hợp đấu tranh và tuyên bố kiên quyết đưa ra tòa án quốc tế là hay nhất. VN có thể yêu cầu Liên Hiệp Quốc cử Ủy Ban điều tra hoà giải. Uỷ ban chỉ có tính khuyến nghị nhưng là biện pháp hai bên có thể chấp nhận trong tình hình hiện nay. Hy vọng trong những lúc nguy nan, trí tuệ Việt Nam bao giờ cũng tìm được đường ra. Một giải pháp chiến tranh không ai muốn nhưng nếu cần thì Việt Nam chắc cũng sẵn sàng. Việt Nam sẽ là bên chịu tổn hại kinh tế nhiều nhất nhưng lâu dài Trung Quốc sẽ mất thế chính trị và sa lầy trong cuộc chiến, hủy hại giấc mơ Trung Hoa của họ. Một cuộc chiến tranh du kích trên biển là tốt nhất với Việt Nam. Một nhóm cướp biển Xomali với tàu nhỏ cao tốc và AK mà bao năm nay thế giới có khống chế được đâu. Với chiều dài bờ biển của mình, Việt Nam có thể bố trí tên lửa và thủy lôi, mìn dày đặc, đánh mạnh vào các đoàn tàu vận tải dầu. Một chiến thuật như Trần Khánh Dư diệt đoàn thuyền lương Trương Hổ vậy. Lịch sử cho thấy chưa bao giờ Trung Quốc bước qua được Việt Nam để xuống phía Nam bằng vũ lực. Nếu Trung Quốc nghĩ lại thì hai bên bắt tay nhau chung sống hòa bình. Việt Nam công nhận vai trò cường quốc châu Á của Trung Quốc trên cơ sở họ tôn trọng độc lập của Việt Nam. Sẽ rất cần tìm cách để chúng ta “thoát lú” và hữu nghị viển vông, an toàn bằng tất cả các biện pháp cần thiết bao gồm cả ngoại giao và pháp lý. Tin rằng, chúng ta sẽ thắng và giải pháp pháp lý cần phải xúc tiến ngay trên cơ sở chuẩn bị kỹ lưỡng. Thay cho lời kết Đọc Kim Dung "Thiên long bát bộ" nhớ lại ván cờ vây trên đỉnh Thiên sơn của Tô Tinh Hà. Bao nhiêu cao nhân anh hùng trong thiên hạ được mời đến đều phải bó tay trước nước cờ bí hiểm và đầy huyền thoại này. Người giải được nước cờ này cuối cùng lại là một nhân vật rất bình thường, một tiểu tăng không tên tuổi của phái thiếu lâm Hư Trúc. Nhân vật này không phải là cao thủ chơi  cờ và vô tình đã gạt bỏ được những nguyên lý tri thức cao siêu “viển vông mơ hồ” của cờ vây để đi một nước cờ rất sơ đẳng và hết sức bình thường mà chẳng cao nhân nào nghĩ tới. Chính lối chơi này đã phá được  nước cờ vây bí hiểm một cách thần kỳ và ngoạn mục. Phải chăng trong chuyện này, Kim Dung muốn nhắc tới một nguyên lý cơ bản, trí tuệ nhân dân và cơ hội lịch sử sẽ tạo nên sự thần kỳ. T.V.T. Tô Văn Trường - Boxit.vn    
......

Vụ Bãi Tư Chính và thế kẹt của Hà Nội

Sau hơn hai tuần lễ im lặng, cuối cùng phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao CSVN Lê Thị Thu Hằng đã phải lên tiếng hôm 19 tháng Bảy về những xung đột đang xảy ra ở Bãi Tư Chính. Thứ nhất, có xung đột giữa 4 tàu Cảnh sát biển CSVN và 2 tàu Cảnh sát biển Trung Cộng (trong đó có một tàu khổng lồ 10.000 tấn) và một nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông, từ ngày mồng 3 tháng Bảy, nhưng hai phía đã giữ im lặng. Thứ hai, CSVN đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Cộng ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, và yêu cầu rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam. Nhưng bà Thu Hằng cho biết là cho đến nay Bắc Kinh vẫn không đáp ứng các yêu cầu của Hà Nội, các tàu của Trung Cộng tiếp tục thăm dò trong khu vực gần Bãi Tư Chính. Trước đó hai hôm, ngày 17 tháng Bảy, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Cảnh Sảng nói rằng Bắc Kinh muốn Hà Nội phải: “thực sự tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc tại các vùng biển có liên quan, và không có những hành động làm phức tạp tình hình.” Trong cùng ngày, khi Thượng Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng trả lời với báo chí lề phải về tình hình Biển Đông, đã hoàn toàn không nhắc gì đến vụ xung đột ở Bãi Tư Chính mà chỉ nói chung chung rằng: “Chúng ta một mặt đấu tranh bảo vệ chủ quyền, mặt khác phải đấu tranh để bảo vệ môi trường hòa bình và lợi ích chung của Biển Đông với cộng đồng quốc tế.” Sự đụng độ giữa tàu cảnh sát biển CSVN và Trung Quốc hiện nay đã làm cho dư luận nhớ đến một biến cố khác xảy ra cách đây hai năm, đúng vào thời điểm tháng Bảy. Đó là vào đầu tháng Bảy năm 2017, công ty Talisman – Việt Nam, một công ty con của Repsol (Tây Ban Nha) đã tuyên bố tìm được một mỏ khí đốt lớn trong khu vực Bãi Tư Chính, thuộc lô 136-03 có trị giá 1 tỷ Mỹ Kim. Tin này đã được CSVN xác nhận. Tuy nhiên ngay sau đó, Bộ Chính Trị CSVN đã phải cho ngưng khai thác khí đốt tại khu vực này vì bị Trung Cộng đe dọa sẽ tấn công vào các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa. Repsol được lệnh phải rời khỏi khu vực, mặc dù đã chi khoảng 300 triệu USD cho việc thăm dò này. Vì thế khi xung đột Bãi Tư Chính xảy ra, lãnh đạo CSVN đã cố tình giấu kín sự việc do vừa lo sợ làn sóng chống Trung Quốc sẽ bùng nổ trở lại, và có thể sẽ lớn hơn cuộc biểu tình chống Dự Luật Đặc Khu xảy ra vào ngày 10 tháng Sáu, 2018, vừa lo ngại những động thái uy hiếp bằng vũ lực từ phía Trung Quốc. Một cuộc biểu tình vô cùng đông đảo, qui tụ mọi thành phần dân chúng nhằm chống Dự Luật Đặc Khu và An Ninh Mạng tại Sài Gòn hôm 10 tháng Sáu, 2018. Thứ nhất, lãnh đạo CSVN đang hưởng rất nhiều lợi ích kinh tế do cuộc xung đột mậu dịch giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Để hưởng những lợi ích này từ cả hai phía Hoa Kỳ (xuất khẩu) và Trung Quốc (đầu tư), CSVN buộc phải giữ thế đu dây và quan trọng hơn nữa là kiểm soát được tình hình, để không cho xảy ra bất cứ những biến động nào dù lớn hay nhỏ. Tâm lý lo sợ biến động đã ăn sâu trong đầu óc các lãnh đạo Hà Nội, biểu hiện rõ rệt trong phát biểu mới đây của Thượng Tướng Nguyễn Chí Vịnh: “Biển Đông là lợi ích chung của cả thế giới, và các vấn đề phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế để đi đến sự ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực.” Phát biểu của Tướng Vịnh và cả tứ trụ trong hàng ngũ lãnh đạo CSVN từ trước tới nay liên quan tới Trung Cộng, đều cho thấy họ không hề “có xương sống”. Do vòng kim cô “Đại Cục”, họ không những phát biểu chung chung để làm hài lòng cả hai phía mà còn biểu hiện một sự nhu nhược trước hành động xâm phạm một cách trắng trợn của Bắc Kinh đối với chủ quyền của Việt Nam trong khu vực Bãi Tư Chính. Thứ hai, Bắc Kinh đang có nhu cầu tạo một “sự cố” tại Biển Đông nhằm giải quyết nhu cầu sinh tử hiện nay, dùng nó trấn áp nội bộ đảng, ngăn chặn những rối loạn có thể xảy ra vì những suy thoái kinh tế từ hậu quả của các chính sách áp thuế của Hoa Kỳ. Với thái độ nhu nhược cố hữu của Hà Nội, Việt Nam đã trở thành đích nhắm tốt nhất của Bắc Kinh để tạo ra “sự cố” trên Biển Đông, thay vì là Hoa Kỳ hay Phi Luật Tân, để vừa đánh lạc hướng người dân Trung Quốc từ những khó khăn kinh tế, vừa triệt hạ những thế lực đang muốn chống lại họ Tập cũng như trấn áp các cuộc vận động của phe dân chủ Trung Quốc hiện nay. Nếu xung đột bùng nổ, Bộ Chính Trị CSVN nhìn thấy rõ là họ rơi vào thế kẹt giữa hai lằn đạn: sức ép chống Tàu của người Việt Nam và sức ép kinh tế đến từ các doanh nhân dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh. Hơn thế nữa, sức ép này lại xảy ra trong bối cảnh sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng chưa phục hồi sau cơn đột quỵ hôm đến thăm Kiên Giang vào ngày 14 tháng Tư, khiến sự chia rẽ nội bộ giữa các khuynh hướng “thoát Trung”, “bám Trung”, “thân Mỹ” càng thêm trầm trọng. Tóm lại, qua phản ứng của Hà Nội về vụ xung đột ở Bãi Tư Chính trong hai tuần lễ vừa qua, người ta càng thấy rõ thế chênh vênh của lãnh đạo CSVN trong cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay. Chính thế chênh vênh này sẽ làm cho nội bộ đảng trở nên phức tạp, và những xung đột ngầm trong việc chuẩn bị nhân sự của đại hội 13 sẽ diễn ra không khác gì những rối rắm ở đại hội 12. Hai thế lực Trần Quốc Vượng (cánh miền Bắc) và Nguyễn Xuân Phúc (cánh Đà Nẵng) sẽ là những nối dài của cuộc tranh chấp Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng của 5 năm về trước. Lý Thái Hùng https://viettan.org/vu-bai-tu-chinh-va-the-ket-cua-ha-noi/  
......

Bộ Y Tế cần làm gì để giải quyết tình trạng bệnh viện công bị quá tải?

  RFA Thực trạng bệnh viện công Dân chúng tại Việt Nam trong những ngày tháng Bảy sôi sục sự phẫn nộ đối với ngành y tế qua các bản tin liên tục được đăng tải, như bác sĩ chuyên khoa Răng Hàm Mặt trực chính ca đỡ đẻ cho sản phụ để cuối cùng trẻ sơ sinh bị kéo đứt cổ tử vong tại Bệnh Viện Đa Khoa huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh; hay một bệnh nhân chết do không được bác sĩ thăm khám sau 4 giờ được chuyển vào phòng cấp cứu ở Bệnh Viện Chợ Rẫy; và một trường hợp khác cũng xảy ra tại Bệnh Viện Chợ Rẫy là bệnh nhân gãy đốt sống ngực nhưng bác sĩ đã khoan nhầm cẳng chân dù bệnh nhân lên tiếng cho biết chân không bị gãy… Các trường hợp vừa nêu được truyền thông loan đi trong thời gian gần đây chỉ là ví dụ điển hình của vô số những ca điều trị bệnh, mà dư luận cho rằng bởi do bệnh viện bị quá tải và nhân viên y tế quá tắc trách dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, thậm chí khiến bệnh nhân mất mạng. Lướt qua trang fanpage của các báo mạng chính thống, Đài RFA ghi nhận không ít ý kiến đòi hỏi và yêu cầu phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với giới chức ngành y tế do lơ là, coi thường mạng sống của bệnh nhân. Quá tải và tắc trách “Từ lúc đào tạo thì người ta đã nói nhiều đến trách nhiệm của người thầy thuốc, bác sĩ là rất cao, phải bám chắc, nắm sát từng phút, từng giờ chứ không thể lơ là chủ quan được bởi vì chủ quan thì xảy ra biến chứng và hậu quả lớn thậm chí đe dọa tính mạng hay ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân.” Trên đây là chia sẻ của Bác Sĩ Dũng, đang làm việc tại một bệnh viện tư nhân ở Hà Nội. Từng công tác trong bệnh viện công, Bác Sĩ Dũng giải bày rằng dù giới y khoa nhớ nằm lòng về y đức mà mình đã được học, tuy nhiên thực trạng điều trị bệnh tại bệnh viện công ở Việt Nam không thể cải thiện được. Bởi vì: “Nguyên nhân sâu xa của vấn đề là sự thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm của thầy thuốc là chính. Bởi vì, người ta vừa phải mưu sinh cộng với làm cả công, cả tư bị cả hai chi phối nên người ta không chú tâm vào trách nhiệm của mình khi khám trị bệnh cho bệnh nhân. Mỗi người bớt đi một ít trách nhiệm thì sẽ gây ra hậu quả thôi. Thứ hai nữa là tình trạng quá tải ở bệnh viện.” Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến, hồi năm 2014 từng lên tiếng xác nhận nguyên nhân gây tử vong cho bệnh nhân phần lớn là do sự non kém tay nghề, sự thờ ơ vô trách nhiệm, bỏ mặc bệnh nhân của y bác sĩ trong bệnh viện. Theo số liệu thống kê không chính thức của Bộ Y Tế tính đến năm 2018, Việt Nam với hơn 1.000 bệnh viện công có 345 ngàn nhân viên y tế, trong đó số lượng bác sĩ trên 55 ngàn người, tương ứng tỷ lệ 7,2 bác sĩ/một vạn dân. Bộ Y Tế cho biết tỷ lệ nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân ở Việt Nam tuy thấp hơn một số nước trong khu vực Đông Nam Á, nhưng vẫn thuộc nhóm có tỷ lệ cao trên thế giới. Mặc dù được ghi nhận như vậy, thế nhưng tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực y khoa tại các bệnh viện công luôn là một câu chuyện dài không có hồi kết. Và đây là nguyên nhân chính của tình trạng bệnh viện công ở Việt Nam bị quá tải. Tiến Sĩ-Bác Sĩ Trần Tuấn, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu và Đào Tạo Phát Triển Cộng Đồng (RTCCD) đưa ra nhận định của ông với RFA về tình trạng bệnh viện công bị quá tải: “Tôi nhìn thấy tình trạng quá tải ở bệnh viện công hiện nay, nguồn gốc sâu xa là đã để cho tình trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu bị bỏ bê. Hay nói khác là chất lượng chăm sóc y tế của tuyến dưới đã không đáp ứng được nhu cầu của người dân, gây sự hoang mang lo lắng về chất lượng chuyên môn buộc người dân đổ dồn lên tuyến trên và tình trạng đẩy y tế công sang công – tư lẫn lộn, tự chủ một phần để lo kinh phí đã khiến các bệnh viện công quay sang tổ chức hình thức dịch vụ thu tiền cho mục tiêu kinh tế và do đó để thu được tiền thì cần có bệnh nhân cho nên dẫn đến có tình trạng quá tải ở bệnh viện công.” Bác Sĩ Trần Tuấn gọi thực trạng đó là “một sự thật đau lòng” qua dẫn giải một thảm cảnh hồi năm 2014 ở Bệnh Viện Nhi Trung Ương đã để xảy ra dịch sởi, gây chết hàng trăm trẻ em do bởi bệnh viện này cứ thu nhận bệnh nhi mắc bệnh sởi vào chữa trị vì mục tiêu kinh tế của bệnh viện. Lỗi tại cơ chế? Xét về phương diện nguồn nhân lực, Bộ Y Tế cho biết tình trạng thiếu hụt nhân viên y tế trầm trọng tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, các bệnh viện tuyến dưới tại các địa phương. Bên cạnh đó, mặc dù hàng năm sinh viên tốt nghiệp ngành y từ 600 đến 1.000 người nhưng vẫn không đáp ứng đủ do thời gian đào tạo khá dài, mất từ 5 đến 6 năm mới có nguồn nhân lực bổ sung cho sự thiếu hụt. Thêm vào đó, sự phát triển nhanh chóng của các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân đã thu hút cán bộ y tế thuộc hệ thống y tế công sang làm việc với mức lương cao hơn. Cụ thể, mỗi ngày bác sĩ tại các bệnh viện công phải điều trị bình quân 100 đến 150 bệnh nhân từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều; trong khi đó tại bệnh viện tư nhân, bác sĩ điều trị mỗi ngày khoảng 10 bệnh nhân nhưng thu nhập gấp đôi hoặc gấp ba. Bác Sĩ Dũng cho RFA biết nhiều bác sĩ mới ra trường thường chọn về công tác tại những bệnh viện ở các thành phố lớn, bệnh viện tuyến trên bởi vì các bệnh viện đó có đầy đủ trang thiết bị y tế và có cơ hội để thu nhập cao hơn so với bệnh viện tuyến dưới. Và một bác sĩ muốn được vào làm việc ở những bệnh viện tuyến trên, bệnh viện trung ương thường phải “chạy việc” với số tiền lên đến cả tỷ đồng. Do đó, không ít nhân viên y tế chọn làm việc ở cả bệnh viện công và bệnh viện tư nhân để kiếm thêm thu nhập trả “phí lo lót”. Bác Sĩ Dũng còn nêu lên tình trạng gọi là “lạm dụng” trong điều trị cho bệnh nhân để nhằm thu lợi kinh tế về cho bệnh viện và nhân viên y tế: “Ví dụ như vừa rồi tại Bệnh Viện 108, trường hợp bệnh nhân 5 tuổi đấy. Trên lý thuyết được học đối với trường hợp trẻ em bị chấn thương thì phải luôn luôn ưu tiên phương pháp bảo tồn cố định, bó bột. Hiện tại có nhiều phương pháp hiện đại chứ không hạn chế can thiệp bằng phương pháp phẫu thuật xương trên đứa bé vì đặc điểm xương của trẻ em rất nhanh liền, chỉ mất tầm 2 tuần là liền thôi. Nhưng bệnh nhân 5 tuổi mà bị đè ra mổ là lạm dụng. Bó bột chỉ mất mấy trăm ngàn, xong rồi ra viện. Trong khi mổ thì phải gây mê và phải có ê-kíp mổ thì mổ lại thành quy trình rồi. Gia đình bệnh nhân phải đưa phong bì cảm ơn cho người mổ chính, người mổ phụ… Có như thế thì mới có thêm tiền được.” Trong một cuộc phỏng vấn với báo mạng Infonet.vn hồi cuối tháng Sáu, 2016 xoay quanh chủ đề thu nhập của bác sĩ ở Việt Nam, Tiến Sĩ-Bác Sĩ Võ Xuân Sơn, làm việc tại Phòng khám Quốc tế EXSON cho biết giới bác sĩ ở Việt Nam thu nhập từ 3 nguồn, bao gồm lương từ ngân sách, các loại phụ cấp và các khoản làm việc ngoài giờ. Bác Sĩ Võ Xuân Sơn nhấn mạnh ngoài mức lương theo hệ số ngân sách cấp tương đối giống nhau, các khoản thu nhập còn lại bị ít dần ở các tuyến càng thấp và càng xa thành phố lớn và khoản thu nhập làm ngoài giờ vắt kiệt sức của bác sĩ. Bác Sĩ Võ Xuân Sơn cũng khẳng định các khoản thu nhập từ “phong bì”, từ “hoa hồng” là các khoản thu nhập “không vui vẻ gì” đối với đa số các bác sĩ. Giải pháp Qua tìm hiểu, Đài Á Châu Tự Do ghi nhận giới chuyên môn trong ngành y cho rằng tình trạng bệnh viện công quá tải và nhân viên y tế tắc trách là một cái vòng lẩn quẩn kéo dài suốt nhiều năm qua. Bác Sĩ Trần Tuấn nêu vấn đề: “Tại sao bệnh nhân đổ lên tuyến trên? Tại sao họ phải mất tiền, mất của, mất thời gian công sức đi lại kéo nhau lên bệnh viện tuyến trên? Chính vì bị mất lòng tin ở các bệnh viện ở tuyến dưới. Tại sao như thế? Chỉ có những người trong ngành y, những người lãnh đạo hệ thống hiểu được, trả lời được và giải quyết được vấn đề này. Nhưng tôi thấy dường như có một bộ phận chịu trách nhiệm vận hành hệ thống y tế này đang đi theo hướng là muốn cho thấy rằng hệ thống bệnh viện công cần phải được tư nhân hóa để giải quyết những tình trạng hiện nay.” Tiến Sĩ-Bác Sĩ Đinh Đức Long, nguyên Trung Tá Quân Đội Nhân Dân Việt Nam khẳng định với RFA rằng xu hướng tư nhân hóa bệnh viện công tại Việt Nam là cần thiết: “Xu hướng tư nhân hóa thì Việt Nam đang đi theo lộ trình của thế giới. Vấn đề là bước đầu làm có thể có bỡ ngỡ, có va vấp nhưng con đường đó là con đường chắc chắn là phải tư nhân hóa, không chỉ bệnh viện mà còn nhiều cái khác nữa.” Đối với xu hướng tư nhân hóa của các bệnh viện công, Bác Sĩ Trần Tuấn nói về ghi nhận của ông: “Hiện tại, người ta đã bắt đầu bằng một phương án gọi là công-tư hợp tác (PPP-Public Private Partnership). Thế nhưng, chúng ta biết rằng hợp tác công-tư để chăm sóc y tế lại thiếu vắng hệ thống giám sát, đánh giá độc lập về mặt chất lượng dịch vụ; chất lượng ở đây bao gồm cả chất lượng chuyên môn và vấn đề chi phí y tế; rồi lại trong tình trạng vấn đề hành lang pháp lý còn thiếu và việc thực thi pháp lý lại còn rơi vào tình trạng thiếu minh bạch, cộng với tiếng nói của bệnh nhân hay nói khác là của các tổ chức đại diện cho người bệnh không được nhìn nhận thì trong hòan cảnh đó nếu cứ tiếp tục mô hình công-tư hợp tác hoặc tăng quyền tự chủ cho bệnh viện công như đang định làm cho 4 bệnh viện đầu ngành (Bạch Mai, Việt Đức, Chợ Rẫy và Bệnh viện K), tôi e rằng không tránh khỏi con đường đi vào tư nhân hóa bệnh viện công, mặc dù với tên gọi là công-tư hợp tác hay bệnh viện công tự chủ hoàn toàn.” Bác Sĩ Trần Tuấn nhắc lại kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị Định 43 năm 2006 trao quyền tự chủ cho các cơ sở công lập có thu, thì hơn một thập niên qua với nguồn ngân sách của nhà nước rót xuống các bệnh viện công dần hình thành cơ chế vận hành tài chính với nguồn thu tạo riêng, thực chất trở thành cơ sở chăm sóc y tế “chả phải công, chả phải tư”. Và bây giờ với Nghị quyết 33 của Chính phủ, cho “tự chủ hoàn toàn” thí điểm tại 4 bệnh viện công đầu ngành, Bác Sĩ Trần Tuấn kêu gọi các giới chức ra chủ trương này cần phải rất cẩn thận xác định mục tiêu tự chủ sẽ dẫn dắt các bệnh viện đi đến đâu và, liệu có khắc phục được tình trạng quá tải hiện nay lại mở ra một mô hình nào khác nữa? Trong khi đó, Bác Sĩ Đinh Đức Long nói rằng mô hình thí điểm theo Nghị quyết 33 chưa diễn ra nên ông không thể nào nhận xét được hiệu quả hay hậu quả của nó. Tuy nhiên, Bác Sĩ Đinh Đức Long xác nhận giải pháp đang thực hiện của Bộ Y Tế là hướng đi đúng: “Trên thực tế thì Bộ Y Tế đang làm. Tôi nói ví dụ ở Hà Nội có Bệnh Viện Bạch Mai có các bệnh viện vệ tinh, Bệnh Viện Việt Đức có các bệnh viện vệ tinh ở tỉnh hay Bệnh Viện Ung Bướu Hà Nội có mấy bệnh viện cơ sở vệ tinh để giảm tải… Vấn đề về phía quản lý vĩ mô thì họ tạo thêm các bệnh viện vệ tinh và cho các bác sĩ ở bệnh viện trung ương luân phiên xuống bệnh viện cơ sở để nâng cao trình độ bác sĩ tuyến dưới. Họ làm nhiều năm rồi và họ đi đúng hướng. Nhưng vấn đề còn là tâm lý của người bệnh nữa. Người bệnh thường có tâm lý không tin ở bệnh viện cơ sở và bệnh gì cũng đi lên tuyến trên. Cho nên chính vì thế tuyến trên bị quá tải. Tôi nghĩ rằng họ đang triển khai là đúng. Tất nhiên không thể làm một lúc được vì phụ thuộc ngân sách, phụ thuộc mặt bằng mà không thể xây dựng bệnh viện trong ngày một ngày hai, phải mất vài năm và còn trang thiết bị nữa. Nhưng họ đang làm theo hướng đó và tôi nghĩ rằng hướng đi là đúng.” Còn theo quan điểm của Bác Sĩ Trần Tuấn cho rằng không thể trao quyền tự chủ cho các bệnh viện công, theo Nghị quyết 33 để rồi đi vào con đường tư nhân hóa, bởi đó mà theo cách gọi của Bác Sĩ Trần Tuấn là “một cách chiếm đoạt nguồn lực công và như vậy sẽ để lại rất nhiều hậu quả trong ngành chăm sóc sức khỏe cho người dân ở Việt Nam.” Bác Sĩ Trần Tuấn khẳng định mục tiêu chắc chắn là phải cải tổ hệ thống y tế công hiện nay của Việt Nam, nhưng phải đảm bảo có được đủ 3 yếu tố chủ thể “công, tư, ngoài nhà nước nhân đạo phi lợi nhuận”, bằng ngược lại cứ “công, tư” lẫn lộn thì “sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển chất lượng chuyên môn, cản trở tính hiệu quả của chăm sóc y tế và hậu quả cuối cùng là người dân cùng đội ngũ cán bộ y tế đều bị thiệt.”    
......

Nhà máy Thủy Điện Nậm Nơn, Nghệ An, bị khởi tố

Phạm Chí Dũng – VOA| Sau nhiều năm tác oai tác quái và xả lũ giết sống dân nghèo mà không bị bất cứ một chế tài hành chính hay hình sự nào, lần đầu tiên có một nhà máy thủy điện bị khởi tố. Lần đầu tiên bị khởi tố Đó là Nhà Máy Thủy Điện Nậm Nơn ở Nghệ An bị khởi tố bởi công an Nghệ An về hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp vào tháng Bảy năm 2019. Nhà máy thủy điện này đã xả lũ mà không thông báo khiến anh Vi Văn May (bản Xiêng Hương, xã Xá Lượng, Tương Dương), thiệt mạng vào tháng Sáu, 2019 mà báo chí đã phản ánh. Song song khởi tố vụ việc trên, công an Nghệ An đang tập trung điều tra quy trình xây dựng nhà máy thủy điện, trong đó có liên quan các hạng mục công trình và thẩm định dự án để xác định “trách nhiệm thuộc về ai”. Đáng chú ý hơn, công an Nghệ An cũng hứa hẹn tổng hợp, điều tra lại toàn bộ thiệt hại trong đợt xả lũ cuối tháng Tám, 2018 gây thiệt hại nặng nề cho 171 hộ dân, trong đó nhiều hộ đến nay vẫn chưa nhận được đền bù. Ngoài ra, can Nghệ An cũng sẽ điều tra các hành vi vi phạm của các nhà máy thủy điện theo quy định tại Nghị Định 134 của Chính phủ về vấn đề vận hành nhà máy thủy điện và hồ chứa. Nếu phát hiện vi phạm sẽ kiến nghị và trực tiếp xử lý. Dù chưa biết rõ động cơ thực sự nào đã dẫn đến tinh thần trách nhiệm của công an vọt cao đột biến như thế, nhưng khách quan mà xét, vụ khởi tố trên là một trong số hiếm hoi lần mà ngành công an Việt Nam đã làm được một việc có ý nghĩa với dân, thay cho cơ chế quan liêu, cửa quyền hoặc đàn áp dân vẫn xảy ra như cơm bữa. Đối với việc vận hành nhà máy thủy điện và hồ chứa, cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm cao nhất, hoặc phải chịu trách nhiệm không thể chối bỏ, là Bộ Công Thương. Vậy Bộ Công Thương và nhiều nhà máy thủy điện do bộ này cùng Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN) quản lý đã ‘lập thành tích’ giết sống dân nghèo trong suốt nhiều năm trời đến mức nào? Hãy nhìn lại và phán xét một trong những tội ác điển hình của EVN: Vụ xả lũ thảm sát người dân miền Trung vào năm 2013. Vụ thảm sát năm tối trời Được cơ quan chủ quản là Bộ Công Thương “bảo kê” hồ sơ tội ác của EVN đã dày quá khổ, không chỉ vì quá nhiều lần tăng giá điện vô lối đánh úp túi tiền cùng kiệt của dân nghèo, mà hành vi cực kỳ nhẫn tâm còn xảy đến vào mùa mưa bão cuối năm 2013: Tháng Mười Một năm đó, tập đoàn này hoàn toàn vô trách nhiệm khi để 15 nhà máy thủy điện đồng loạt xả lũ lên đầu người dân vùng rốn Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Đắc Lắc… khiến gây ra cái chết tang thương của hơn 50 mạng người. Cái năm trời tối như mực ấy, cả rẻo đất hình chữ S đã quằn quại trong một thảm cảnh vô cảm đồng loại chưa từng có! Không thể gọi khác hơn, người dân vùng rốn lũ đã bị ép chặt vào một cái đáy không lối thoát. “Dưới đáy” ở Việt Nam cũng là đêm không ngủ. Những nạn nhân chỉ trong phút chốc đã bị mất toàn bộ tài sản nhỏ nhoi và miếng ăn còn sót lại. Nhưng đã không có một hành động nào được các “đày tớ” làm sáng tỏ cho những cái chết trong quá khứ để tránh thoát những cái chết vừa mới xảy ra. Đầu giờ chiều 13/12/2016, hai nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Ba thuộc địa phận tỉnh Phú Yên là Thủy Điện Sông Ba Hạ và Thủy Điện Sông Hinh đồng loạt xả lũ xuống hạ du với tổng lưu lượng lên 6.000 m3/giây. Trong đó, Nhà Máy Thủy Điện Sông Ba Hạ xả 4.500 m3/giây, Nhà Máy Thủy Điện Sông Hinh xả 1.500m3/giây. Ảnh: báo Giao Thông Phú Yên với liên tiếp những cú xả lũ của Thủy Điện Sông Hinh và Thủy Điện Sông Ba Hạ những năm trước là một điển hình về sự vô lương tâm chưa hề có đáy. “Vô cảm” xem ra vẫn là từ ngữ nhẹ nhàng và lịch sự mà báo giới và dư luận dành để mô tả về quan chức thời nay. Tất cả đều biết cấp trên trực tiếp của các nhà máy thủy điện là EVN, còn thủ trưởng trực tiếp của EVN là Bộ Công Thương. Tuy nhiên, sau vụ “giết sống” trên, nhiều phóng viên báo chí quốc doanh đành nuốt nhục vì bị cơ quan tuyên giáo “chặn họng.” Tội ác đã được che chắn đến mức tối đa sau khi xuất hiện thông tin EVN và cơ quan chủ quản quá nhiều lần “bảo kê” cho tập đoàn này là Bộ Công Thương đã có “quan hệ” đủ dày và đủ sâu để Ban Tuyên Giáo Trung Ương, theo thói quen “nắm đầu” báo chí và công khai cấm cản tất cả những tin tức không có lợi cho “đảng ta” và cả bất lợi cho “chúng ta”, đã chặn đứng kế hoạch đưa vụ EVN ra công luận của những tờ báo ít sợ nhất. Nhân quả là đã không có bất kỳ một quan chức vô cảm và vô trách nhiệm nào phải đối mặt với vành móng ngựa, mặc dù chính vào lúc người dân chết chìm trong nước lũ xả trắng mênh mông, Bộ Trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng còn bận “công du “ ở nước ngoài. Thậm chí sau đó EVN còn được Bộ Công Thương đề nghị nhà nước phong tặng các loại huân chương cao quý! Ở trên cao và trùm lên tất cả, trách nhiệm thuộc về Bộ Trưởng Vũ Huy Hoàng – người đứng đầu một bộ có tiếng nói quan trọng nhất trong vấn đề quy hoạch thủy điện, phê duyệt các dự án thủy điện. Bất chấp những lời dẫn dụ đầy ngụy biện của giới quan chức chính phủ và bộ ngành, tất cả đều đã quá chậm. Bất chấp vài trăm dự án thủy điện cuối cùng cũng buộc phải gạt ra khỏi quy hoạch, hàng trăm dự án thủy điện còn lại đã quét đi hơn 50.000 hecta rừng, hàng ngàn hecta đất ở, đất trồng trọt của người dân… khiến dân chúng phải chuyển nhà, mất nghề và khốn đốn trong sinh hoạt. Nhiều người dân trắng tay và mất hết lòng tin vào chế độ. Nhưng cho tới nay, từ Bộ Trưởng Vũ Huy Hoàng đã ‘hạ cánh an toàn’ trở xuống, đã không một kẻ nào phải ra trước vành móng ngựa để trả lời cho những cái chết trên. Mọi việc vẫn treo nguyên vẹn ở đó, hệt như dòng lũ trắng luôn treo lơ lửng trên đầu người dân vùng rốn lũ, từ năm 2013 đến tận giờ này. Hố Hô: những oan hồn không thể nhắm mắt Ba năm sau vụ 15 nhà máy thủy điện của EVN đồng loạt xả lũ giết chết hơn năm chục mạng dân nghèo ở rốn lũ miền Trung, lịch sử lại tái diễn trên mảnh đất xơ xác này vào mùa bão lũ cuối năm 2016. Những tờ báo nhà nước phẫn nộ nhất cũng chỉ dám úp mở đánh tiếng vụ Thủy Điện Hố Hô ở Hà Tĩnh là “xả lũ sai quy trình”, nhưng không dám nói gì về hơn 20 người Hương Khê bị những kẻ vận hành xả lũ làm thiệt mạng. Sau đó, như một hiệu lệnh bất thành văn đầy dấu hiệu tuyên giáo, giới truyền thông quốc doanh im bặt. Sau những báo cáo trơn tuột và những cuộc họp cũng bôi trơn như thế, rốt cuộc vụ Thủy Điện Hố Hô xả lũ giết chết dân Hương Khê ở tỉnh Hà Tĩnh đã có thể bị xem như chìm xuồng. Một bản báo cáo trong cuộc họp báo của Thứ Trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng đã chỉ thừa nhận: “Công ty Thủy Điện Hố Hô đã có những sai sót nhất định trong việc chấp hành về Luật Tài Nguyên Nước cũng như quy trình vận hành hồ chứa”. Nhưng trong toàn bộ bản báo cáo cực kỳ vô cảm trên, điều khiến những nạn nhân không thể nhắm mắt là đã không có một dòng nào đề cập đến hơn 20 mạng người Hương Khê bị lũ Hố Hô cuốn trôi và dìm chết. Đoàn kiểm tra của Bộ Công thương do Thứ Trưởng Hoàng Quốc Vượng làm đầu đã “làm việc” với đơn vị Thủy Điện Hố Hô hiệu quả đến mức sau đó đã kết luận “đáng lẽ Thủy Điện Hố Hô có thể làm tốt hơn” – (tức giết sống dân nhiều hơn?) Không nhắc gì đến chuyện dân chết do xả lũ, phải chăng Hoàng Quốc Vượng và giới quan chức Bộ Công Thương đã rơi vào tư thế “há miệng mắc quai” để cho “có đi có lại” với Công Ty Cổ Phần Thủy Điện Hố Hô? Thói bao che từ trên xuống dưới trong thể chế chính trị ở Việt Nam đã trút mọi tang thương lên đầu dân nghèo. Hẳn Công Ty Cổ Phần Thủy Điện Hố Hô đã quá đủ thời gian để rút ra bài học là cả EVN lẫn Vũ Huy Hoàng đều được những bàn tay bí mật nào đó từ cấp cao che chắn đến mức tối đa để không phải chịu bất cứ hình thức xử lý nào, tạo thành một tiền lệ đắt giá để những kẻ đi sau vẫn ung dung xả lũ lên đầu nhân dân. Miền Trung tang thương sau nhiều cơn lũ thiên tai và nhân tai, sau trận tàn phá dữ dội của cơn lũ quét mang tên Formosa, và cho tới giờ là những kẻ xả lũ giết người không một chút nương tay. Còn trách nhiệm của Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc? Phải truy tố! Không một dòng tin tức nào trên báo chí cho thấy ông Phúc ngó ngàng đến những nạn nhân ở miền Trung. Thậm chí ngược lại, ngay sau cuộc họp với Thủ Tướng Phúc về vụ Hố Hô, giới lãnh đạo Bộ Công Thương còn đầy tự tin trưng ra công luận bản báo cáo về “vài sai sót” của Thủy Điện Hố Hô mà không có một từ nào về bất kỳ trách nhiệm nào trước vụ “thảm sát Hương Khê”. Người dân vùng rốn lũ cũng bởi thế đang bị dồn vào bước đường cùng. Mưa lũ vẫn đang và vẫn sẽ tiếp diễn, ập xuống từ trên trời nhưng cũng sẽ dội lên từ lòng đất. Sẽ còn những cái chết, nhiều sinh mạng bị đánh cắp và đánh cướp. Xã hội Việt Nam sẽ còn vô cảm đến bao giờ? Người dân Việt Nam sẽ còn cam chịu đến khi nào? Oan hồn các nạn nhân sẽ còn phải mở mắt để chứng kiến bao nhiêu cái chết nữa trên mảnh đất của “trại súc vật” này? Muộn còn hơn không, vụ xả lũ thủy điện mang tính thảm sát của EVN ở các tỉnh miền Trung vào năm 2013 và năm 2016 phải bị truy tố ra tòa, với trách nhiệm đầu tiên thuộc về những doanh nghiệp thủy điện, EVN và trách nhiệm điều hành của giới cựu lãnh đạo Bộ Công Thương như Vũ Huy Hoàng và trách nhiệm liên đới đối với bộ trưởng công thương đương nhiệm là Trần Tuấn Anh. Phạm Chí Dũng - VOA Cần thêm bao nhiêu người phải chết cho thủy điện?  
......

Quay lưng bỏ đảng

Phạm Trần Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã nhận ra nhóm chữ “diễn biến hòa bình” do họ chế ra không chỉ giới hạn trong “các thế lực thù địch từ bên ngoài” mà còn nằm ngay trong lòng chế độ với số không nhỏ cán bộ, đảng viên muốn tử bỏ Chủ nghĩa Cộng sản và đòi chấm dứt quyền lãnh đạo độc tôn của đảng. Việc PSG. TS Chu Hảo (trái) bị đề nghị kỷ luật đã khiến nhiều giới trí thức, văn sĩ đồng loạt tuyên bố rời khỏi Đảng Cộng sản, với sự khởi xướng là nhà văn Nguyên Ngọc (phải). Ngày càng có nhiều đảng viên muốn tử bỏ chủ nghĩa cộng sản và đòi chấm dứt quyền lãnh đạo độc tôn của đảng Tình trạng này được 4 cơ quan bảo vệ tư tưởng Đảng gồm Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận và Cục Chính trị Bộ Quốc phòng, gọi chung là “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong hàng ngũ đảng và quân đội. Một số bài viết xuất hiện trên các Tạp chí Cộng sản, Tuyên giáo, Xây dựng Đảng và Quốc phòng Toàn dân, trong thời gian gần đây, mang tính khẩn trương đã cảnh giác đảng viên phòng, chống và ngăn chặn không để cho làn sóng suy thoái tư tưởng đe dọa sự sống còn của đảng. Đáng chú ý là nhiều đảng viên đương chức hay nghỉ hưu cũng đã “nhạt đảng, xa đoàn” như nhiều đoàn viên của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thành phần nam, nữ trẻ được coi là “hạt giống đỏ kế thừa” của đảng. Do đó, điều lo lớn nhất của đảng cầm quyền Cộng sản, trước thềm Đại hội đảng XIII dự trù vào tháng 1/2021, là không ít cấp lãnh đạo chủ chốt đã công khai bài bác chủ trương xây dựng đất nước của đảng tiếp tục dựa trên nền tảng Chủ nghĩa phá sản Mác-Lenin và Tư tưởng Cộng sản ngoại lai của Hồ Chí Minh. Vì vậy Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần buộc cán bộ lãnh đạo, nhất là thành phần được gọi là “chủ chốt” hay “cấp chiến lược” phải tuyệt đối trung thành với Đảng và kiên trì bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh như đã quy định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). BẰNG CHỨNG Sự lúng túng, giao động của đảng CSVN đã phản ảnh rõ nét trên Tạp chí Quốc phòng Toàn dân ngày 17/07/2019. Bài viết có tựa đề “Góp phần đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội”, đã hù họa rằng: “Mục tiêu xuyên suốt không thay đổi của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với Việt Nam là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là khi chúng ta đang chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chúng càng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách toàn diện, trong đó tập trung vào các lĩnh vực tư tưởng chính trị, kinh tế, pháp luật, quốc phòng, an ninh, nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự đại hội Đảng các cấp, v.v. Để thực hiện mục đích, chúng triệt để lợi dụng môi trường internet và mạng xã hội để làm nhiễu loạn thông tin, đưa tin thật giả lẫn lộn hòng làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là lớp trẻ vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ trong dẫn dắt đất nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như thế thì lực lượng 10,000 lính của Lực lượng 47 (hay còn được gọi là Trung đoàn 47) của Tổng cục Chính trị Quân đội, có nhiệm vụ “đấu tranh trên không gian mạng”, đã phất cờ trắng đầu hàng rồi sao? Đội ngũ này, theo lệnh Đảng và Chỉ thị 47 của Tổng cục Chính trị ngày 01/01/2016, có bổn phận: “Đấu tranh, chống các luận điệu xuyên tạc của các đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách và luật pháp Nhà nước Việt Nam”.   Theo Bách khoa Toàn thư mở thì Lực lượng 47 còn: “Chuyên trách nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục trên không gian mạng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch với Đảng Cộng sản Việt Nam, hay những đối tượng cơ hội chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. “Tính đến tháng 12 năm 2017, lực lượng này có hơn 10, 000 người. Lực lượng này đang có mặt ở tất cả các đơn vị cơ sở, mọi miền, mọi lĩnh vực của quân đội. Đây là lực lượng đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; phản bác các quan điểm sai trái trên mạng Internet”. Hoạt động của đội quân 47 được thi hành song song với một lực lượng “Công an mạng” của Bộ Công an nhằm kiểm soát các hoạt động trên mạng lưới Internet, theo quy định của Luật an ninh mạng. Luật này được ban hành năm 2018 nhằm kiểm soát tư tưởng người dân và kiểm soát thông tin ở Việt Nam.   Để chống lại “các thế lực thù địch”, bài viết của Đại tá, TS. Đỗ Duy Ánh, Văn phòng Tổng cục Chính trị đề ra một số nhiệm vụ như: – Cần quan tâm lãnh đạo kiện toàn, xây dựng phát triển lực lượng đấu tranh theo hướng tạo thế liên hoàn, vững chắc, có bộ phận chủ lực, nòng cốt, chuyên sâu, tập hợp lực lượng rộng rãi; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. – Trong tổ chức thực hiện, cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị. Các cơ quan báo chí cần phát huy vai trò nòng cốt đấu tranh công khai, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, góp phần định hướng dư luận xã hội. Ngoài ra, bài báo cũng yêu cầu: “Lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu phải thường xuyên được trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ; được trang bị đầy đủ, vững chắc lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các thông tin đấu tranh phải trung thực, khách quan, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, của đất nước, mang tính đảng, tính khoa học cao”.   TRONG LÒNG CHẾ ĐỘ Nhưng “thế lực thù địch” không chỉ từ bên ngoài mà đã sống nhởn nhơ trong lòng chế độ từ lâu rồi. Một bài trên Tạp chí Tuyên giáo ngày 17/07/2019 tiết lộ: “Cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch, trong xã hội đã xuất hiện thêm những luận điệu nhằm hạ thấp, phủ nhận thành quả cách mạng và sự nghiệp đổi mới đất nước của nhân dân ta; “nắn dòng” dư luận để thổi phồng khuyết điểm của Đảng và Nhà nước ta của những kẻ suy thoái, biến chất. Dùng chiêu “mớm lời”, “rắc thính”, kích động để không chỉ gây tâm lý hoang mang, hồ nghi trong một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, dàn “đồng ca” của các thế lực thù địch đã và đang làm cho những biểu hiện đó được “khuyếch trương” mạnh mẽ hơn bằng các thủ đoạn đặt câu hỏi như: nếu không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thì nước ta sẽ đi theo con đường nào? Và rồi, họ tự trả lời bằng cách “khuyên nhủ” chúng ta phải đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản để được tự do, v.v…” (Theo Thiếu tướng. PGS. TS. Nguyễn Văn Thế, Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng). Ông tướng Thế còn vạch áo đảng cho mọi người thấy: “Một bộ phận phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” đã “phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”; “nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Chúng bôi nhọ, hạ thấp và phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, của công cuộc đổi mới. Chúng rêu rao và đổ lỗi cho sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi thay đổi con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, từ đó, đòi thay đổi thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng; tìm mọi cách cản trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước…” Trước sức công phá của lực lượng chống đảng ngay trong lòng chế độ, Thiếu tướng Thế đã rát mặt phản công: “Ra sức xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng và Nhà nước ta là một trong những âm mưu thủ đoạn mà các thế lực thù địch đang tiến hành. Phòng, chống, ngăn ngừa những biểu hiện đó là hết sức cần thiết và cấp bách, nếu không sẽ ảnh hưởng tới uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng”.   Tác giả bài viết thừa nhận cuộc tấn công đã đánh trúng mục tiêu khi ông lên giọng hằn học: “Chúng còn “tìm kiếm” và cố tình đưa ra những thông tin hằn học, nhai lại những luận điệu cũ rích nhằm hạ bệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ nhận công lao của Người; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hạ uy tín nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao, gây mất niềm tin trong nhân dân, làm cho dân xa Đảng, mất đoàn kết nội bộ, kích động tâm lý xã hội”.   Nhưng làn sóng chống đảng không chỉ có bấy nhiêu đòn phép mà còn biết: “Lợi dụng, khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm của chúng ta trong thực hiện chủ trương, chính sách và thực thi pháp luật, nhất là lợi dụng việc Đảng đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham ô, tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; công kích Đảng, xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, chúng cho “ra lò” những cuốn sách, tờ báo, tờ rơi, những “tâm thư”, “giác thư”, “thư ngỏ”, “tuyên cáo”, công khai nói rõ điều đó, công khai đòi đánh đổ, kêu gọi giải tán Đảng, xóa Điều 4 của Hiến pháp..”. VẪN NHƯ CŨ Với 2 bài viết tiêu biểu nêu trên, tưởng đâu tình hình cán bộ, đảng viên mới có những chứng hư tật xấu thời gian gần đây. Nào ngờ cũng chỉ là chuyện xưa như trái đất, từng được đảng vạch ra từ Đại hội Đảng XII năm 2016. Tạp chí Xây Dựng Đảng đã nói ra trong bài viết ngày 05/05/2019: “Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng nhận định: Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương… Hậu quả, hệ lụy của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng chỉ rõ: Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.  Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”. (Theo PGS, TS. Nguyễn Minh Tuấn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Như vậy là những khuyết tật kinh niên của đảng CSVN vẫn còn và tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã hết thuốc chữa. Trước tình hình nhiễu nhương như thế, nhất là khi tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra” vẫn lan tràn trong Đảng và xã hội thì làm sao mà những đảng viên thấp cổ bé miệng và dân nghèo không quay lưng bỏ đảng. Họ ở lại để làm gì, cho ai và vì ai?  
......

Tại sao Trần Bắc Hà bị giam tại nhà tù quân đội và ‘tự chết’?

Thường Sơn -  Việt Nam Thời Báo Ngày 18 tháng Bảy, 2019, dư luận xã hội và đặc biệt là giới doanh gia ngân hàng một lần nữa dậy sóng bởi cái chết thình lình của Trần Bắc Hà – cựu chủ tịch Ngân hàng BIDV. Vào tháng Mười Một, 2018, Trần Bắc Hà được cho là đã bị mật vụ Việt Nam bắt tại Campuchia và sau đó đưa về Việt Nam. Vụ bắt này xảy ra chỉ hai tháng sau cái chết thình lình và đầy nghi vấn của Trần Đại Quang – quan chức chủ tịch nước. Cũng trong vụ bắt Trần Bắc Hà ở Campuchia, không có thông tin công khai nào về việc cơ quan điều tra quân đội đã tham gia, mà chỉ có Bộ Công An. Tuy nhiên một bản tin của báo Tuổi Trẻ về cái chết của Trần Bắc Hà đã lần đầu tiên cho biết Hà chết trong khi đang ở trong trại giam quân đội tại Sóc Sơn. Theo Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự, vụ án Trần Bắc Hà là ngành công an thụ lý điều tra và theo đó Trần Bắc Hà phải bị giam tại trại tạm giam của Bộ Công An. Vậy cánh quân đội có mối quan hệ ‘đặc biệt’ nào đối với vụ Trần Bắc Hà mà Hà phải bị tạm giam tại trại giam quân đội chứ không phải trại giam công an? Phải chăng vụ án Trần Bắc Hà không chỉ thuần túy từ những sai phạm kinh tế mà còn liên quan, hoặc liên đới rất sâu đến cả nội bộ đảng và nội bộ cao cấp bên quân đội? Hoặc thuộc loại án ‘an ninh quốc gia’ nhưng nằm trong tuyến phụ trách của Tổng Cục 2 (Tổng Cục Tình Báo Quân Đội) chứ không phải thuộc trách nhiệm của Bộ Công An? Cái chết của Trần Bắc Hà cũng có vẻ đáng nghi vấn. Trong khi có báo nhà nước cho biết ông ta chết do cao huyết áp, thì có báo khác lược sử về căn bệnh gan của Trần Bắc Hà. Trong khi đó, đã dậy lên dư luận về khả năng Trần Bắc Hà bị đầu độc nhằm mục đích ‘giết người diệt khẩu’… Trước khi và vào lúc bị bắt, Trần Bắc Hà được cho là nhân vật đầu mối của nhiều phi vụ mafia tài chính, là một trong những ‘tay hòm chìa khóa’ của ‘gia tộc Nguyễn Tấn Dũng’, và còn là một tay trùm về ‘tổ chức nhân sự cấp trung ương’. Những vết mờ xung quanh cái chết của Trần Bắc Hà lại khiến người ta nhớ lại cái chết đột ngột của cựu quan chức Vinalines là Dương Chí Dũng trong trại giam, vào năm 2016. Mặc dù sau nhiều tin đồn đoán về cái chết này, đã có một vài thanh minh ‘Dương Chí Dũng còn sống’ được đưa lên mạng xã hội, nhưng điều rất rõ ràng là cho tới nay chẳng có thông tin chính thức nào về việc Dương Chí Dũng còn hiện trên cõi đời. Cũng giống như Trần Bắc Hà, Dương Chí Dũng đã bị bắt tại Campuchia – nhiều dư luận cho biết bởi cơ quan tình báo quân đội Việt Nam – vào năm 2012, sau đó đưa về nước quy án rồi sinh ra ‘tự chết’. Nếu trước đây chỉ rất phổ biến rất nhiều vụ người dân thình lình ‘tự chết’ hoặc ‘tự treo cổ’ trong đồn công an – mà nguồn cơn thực chất rất bị nghi ngờ là do chính các công an viên tra tấn tàn bạo gây ra, thì nay dường như bóng dáng tử thần đã vươn lưỡi hái đến tận giới doanh nghiệp trong trại giam. Vào những ngày này, khi giới doanh nghệp và ngân hàng còn đang rúng động bởi những vụ bắt bớ quan chức doanh nghiệp, thì nay cái chết của Trần Bắc Hà càng khiến cho những kẻ chưa bị bắt không thể không ‘băn khoăn’ khi hình dung ra một ngày đẹp trời nào đó họ bị còng tay và bị đưa thẳng vào xà lim ẩm thấp mốc meo, nơi mà rủi ro luôn rình rập vào mọi giờ khắc, và cũng là nơi mà một sợi dây thừng đủ dài để tự chết theo đúng nghĩa đen là đáng giá ngàn vàng. Thường Sơn -  Việt Nam Thời Báo  
......

8 năm tù không hối tiếc vì khẩu hiệu “HS.TS.VN”

Sự kiện Trung Quốc tiếp tục xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam tại Bãi Tư Chính trên Biển Đông vẫn là bí mật được dấu kín. Như bao nhiêu chuyện mà giới lãnh đạo đảng cầm quyền cho là “nhạy cảm”, những sự thật về biên giới hải đảo là một trong số cấm kỵ đó. Ngay thời điểm này mà những tin tức về cuộc chiến bảo vệ tổ quốc đó vẫn bị che dấu, ít người được biết đến, thì thật là thương xót cho những người cả chục năm trước lên tiếng vì tình yêu quê hương đất nước biết bao. Theo dõi những diễn biến thời sự gần đây đã làm tôi nhớ đến Nguyễn Đặng Minh Mẫn – một người phụ nữ trẻ bước vào tù ở tuổi thanh xuân 26 tuổi, chỉ vì dám khẳng định “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”, cách đây 8 năm. Chỉ vì viết những khẩu hiệu như “HS.TS.VN” mà Minh Mẫn đã bị bắt vào tháng Bảy năm 2011, và bị kết án 8 năm tù giam với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Sắp tới đây người thanh nữ yêu nước đó mãn hạn tù sau những năm tháng bị đoạ đày. Nhiều người có thể nghĩ rằng tại sao chỉ nói lên sự thật về chủ quyền của tổ quốc mà lại bị quy tội. Thật trớ trêu thay, chính chị Minh Mẫn là nhân chứng rằng tuyên bố “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam” lại là điều cấm kỵ đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cứ nhìn cách mà báo chí và giới cầm quyền hành xử với những blogger hay facebooker trước nguy cơ Trung Quốc hoàn toàn chiếm trọn Biển Đông là có thể hiểu phần nào. Những cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm biển đảo bị chính công an Việt Nam vùi dập trong máu và dùi cui. Khẩu hiệu HS.TS.VN được dùng sơn xịt lên tường để khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Những cuộc xuống đường chống Trung Quốc năm 2011, đã khiến không ít người bị tù đày. Nhưng đáng chú ý hơn là nhà hoạt động trẻ Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị quy tội vì viết những dòng chữ “HS.TS.VN”. Sự thật thì chính cáo trạng đã ghi rằng chị Minh Mẫn dùng bình sơn xịt các khẩu hiệu “HS.TS.VN” (Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam) như là hành vi tội phạm. Có thể coi việc bỏ tù chị Minh Mẫn như là bằng chứng mà Hà Nội thừa nhận sự tùng phục của họ đối với Bắc Kinh. Tôi vẫn còn nhớ như in khi thẩm phán phiên toà hôm tháng Giâng năm 2013, đã hỏi đi hỏi lại về động cơ của chị Nguyễn Đặng Minh Mẫn khi xịt sơn với dòng chữ “HS.TS.VN” lên tường. “Bị cáo làm như vậy (viết chữ ‘HS.TS.VN’ để làm gì?” Hay “bị cáo hãy cho biết động cơ của bị cáo khi làm như vậy?”… 8 năm sau, chính thể cộng sản Việt Nam vẫn không thay đổi thái độ “hèn với giặc, ác với dân”. Họ vẫn cố tình bịt tai quân đội, bịt mắt nhân dân, bịt miệng báo chí. Cả hệ thống tuyên giáo vẫn coi người đòi xoá “đường lưỡi bò”, đòi dân chủ nhân quyền là “phản động”, trước sự kiện Bắc Kinh đang xua tàu chiến đến chiếm Bãi Tư Chính. 8 năm sau người dân đã dần nhìn rõ những hành vi phản trắc của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đã có thêm những người trẻ bất chấp nỗi sợ hãi liệt kê tên mình vào danh sách những tù nhân lương tâm. Nhưng cũng là thêm những năm sự hy sinh của những người như chị Minh Mẫn vẫn chưa được đền đáp tương xứng. Nhà nước này lại tiếp tục để mất thêm những vùng tiền tiêu của tổ quốc. 8 năm tù không một ngày giảm án, không một lần hối tiếc vì hành động của mình. Những điều đó có làm cho chúng ta bận tâm suy nghĩ? Chúng ta có đủ can đảm để khẳng định chủ quyền quốc gia bất chấp bị coi là “phản động”, bất chấp bị đoạ đày vì lòng yêu nước của mình? Tôi không tin người Việt của chúng ta hèn nhát và tôi cũng không oán trách nếu như còn nhiều người chưa lên tiếng. Tôi vững tin rằng Việt Nam có rất nhiều những anh thư như chị Nguyễn Đặng Minh Mẫn. Tôi cũng tri ân bao người trẻ vẫn miệt mài dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đất Mẹ Việt Nam. Khi chị Nguyễn Đặng Minh Mẫn ra khỏi nhà tù nhỏ chắc chắn chị sẽ nhập dòng cùng với dân tộc để tiếp tục sứ mang phá đổ nhà tù lớn, chấm dứt những ngày nô lệ phương Bắc để vĩnh viễn cất cao lời thề “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” mà chị đã bị đẩy vào nhà tù cách nay 8 năm. Trong niềm tin đó, tôi tự hỏi chúng ta đã và sẽ cùng nhau làm gì để dải đất chữ S này thoát khỏi gọng kềm phương Bắc? Chúng ta sẵn sàng làm gì để dân tộc này thoát khỏi gông cùm của chế độ độc tài? Bình Lâm https://viettan.org/8-nam-tu-khong-hoi-tiec-vi-khau-hieu-hs-ts-vn/  
......

Nguyễn Tấn Dũng lại thoát nạn

Trung Điền - Web Việt Tân |   Nếu Đinh La Thăng được ví như một cận thần của ông Nguyễn Tấn Dũng trong việc thu phục “quần hùng” để tranh giành ghế Tổng Bí Thư với phe ông Nguyễn Phú Trọng trong đại hội 12, thì Trần Bắc Hà được coi là cận thần nắm “tài chánh” để nuôi các quần hùng đã thu phục được, kể cả việc xây dựng đế chế của gia đình Nguyễn Tấn Dũng.   Vì thế mà sau khi xong phiên tòa kết án Đinh La Thăng 30 năm tù giam và phạt nộp hơn 800 tỷ đồng vào tháng Sáu, 2018, ông Nguyễn Phú Trọng đã hạ lệnh khởi tố và bắt tạm giam Trần Bắc Hà vào cuối tháng Mười Một, 2018 cùng với 2 người khác là Trần Lục Lang, cựu Phó Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV), và Kiều Đình Hòa, cựu Giám Đốc BIDV Hà Tĩnh, về tội “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, và hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng”.   Trần Bắc Hà sinh năm 1956 tại Bình Định. Năm 1981, ông Hà được nhận vào làm việc trong BIDV là một trong 3 ngân hàng thương mại cổ phần lớn có vốn nhà nước trên 50%. Năm 1991, ông Hà được thăng chức giám đốc chi nhánh Bình Định. Năm 1999 được thăng chức Phó Tổng Giám Đốc BIDV. Tháng Năm, 2003 được thăng chức Tổng Giám Đốc và đến tháng Gi6ng, 2008 thì làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị. Ngày 1 tháng Chín, 2016 thì về hưu. Ông Trần Bắc Hà lả một người “lăn lộn” trong ngành Ngân hàng hơn 3 thập niên, thuộc loại “bố già” trong hệ thống ngân hàng – tài chánh của chế độ từ thời bao cấp đến thời mở cửa.   Trần Bắc Hà đã trở thành thân thiết với ông Nguyễn Tấn Dũng từ sau khi chuyển từ giám đốc chi nhánh Bình Định lên làm phó giám đốc Ngân Hàng BIDV vào tháng Mười, 1999, lúc đó ông Dũng đang làm phó cho Thủ Tướng Phan Văn Khải, kiêm nhiệm chức Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (5/1997-12/1999) sau khi Cao Sĩ Kiếm về hưu.   Sau khi ông Nguyễn Tấn Dũng rời chức Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước vào tháng Mười Hai, 1999, ông Lê Đức Thủy được ông Dũng đề cử lên thay thế, bộ ba Nguyễn Tấn Dũng – Lê Đức Thủy – Trần Bắc Hà đã có những quan hệ rất đặc biệt kể từ đó.   Năm 2011, ông Lê Đức Thủy đã bị tờ báo The Age của Úc tố cáo trong một loạt điều tra là đã nhận hối lộ từ công ty Securency của Úc in tiền polymer của Việt Nam, một cách tham nhũng và khuất tất là công ty này trả tiền học phí và ăn ở cho con trai ông Thủy tên Lê Đức Minh lúc đó đang học tại Anh vào năm 2007.   Còn đối với ông Trần Bắc Hà, qua chỗ thân cận với ông Nguyễn Tấn Dũng, ông Hà phụ trách việc cung cấp mọi nhu cầu tài chánh khi cần cho phe nhóm Nguyễn Tấn Dũng từ khi Dũng được chọn lên làm thủ tướng thay ông Phan Văn Khải từ năm 2006. Chính mối quan hệ này, ông Hà trở thành một ông trùm ngân hàng kéo dài trong hai thập niên cho đến lúc về hưu.   Ông Trần Bắc Hà thường xuất hiện bên cạnh ông Nguyễn Tấn Dũng trong các dịp tham quan chùa chiền, đền thờ… như là một đại gia đứng sau lưng thủ tướng, đưa tiền cúng dường cho chùa hay nhà thờ. Trần Bắc Hà còn giúp kín đáo cho dịch vụ vay tiền của con gái ông Dũng. Vì thế mà trong cáo trạng truy tố, ông Trần Bắc Hà bị kết án sai phạm trong việc cho vay 4.700 tỷ đồng cho 12 công ty của Phạm Công Danh, nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Ngân Hàng Xây Dựng Việt Nam cũng như một số ngân hàng khác.   Thông thường sau khi truy tố và bắt giữ, công an điều tra sẽ giam giữ phạm nhân ở nhà tù do Bộ Công An quản lý như T16 hay B14; nhưng theo báo Tuổi Trẻ loan tải thì ông Trần Bắc Hà được đưa đi cấp cứu ở Bệnh Viện 105 từ trại giam quân đội ở Sóc Sơn. Việc đưa ông Trần Bắc Hà giam giữ và điều tra ở trại giam quân đội là dấu hỏi lớn. Phải chăng ông Trọng không tin vào sự điều tra của công an dù bộ máy công an đã bị ông Trọng phá sập 6 tổng cục và sắp xếp lại hoàn toàn mới.   Ngoài ra, báo Tuổi Trẻ loan tải rằng ông Trần Bắc Hà chết trước khi đến bệnh viện vì bị ung thư gan ở vào thời kỳ nguy kịch. Trước khi bị bắt, ông Hà bị ung thư gan và từng sang Singapore chữa trị. Đáng lẽ chính sách giam giữ và chăm sóc sức khỏe ông Hà phải có sự đặc biệt vì đây là một “tù nhân” quan trọng, phục vụ cho mục tiêu đánh sập đế chế của Nguyễn Tấn Dũng. Dư luận nói chung không tin vào nguyên nhân tử vong của ông Hà như báo chí nhà nước loan tải là chết vì bệnh gan.   Phải chăng sau hơn 6 tháng giam giữ và từ chối cung khai những điều liên quan đến Nguyễn Tấn Dũng, ông Trần Bắc Hà đã chọn cái chết để bảo vệ ông Dũng và phe nhóm ông Dũng, sau khi nghe tin ông Nguyễn Phú Trọng đột quỵ.   Nói cách khác, sự kiện ông Nguyễn Phú Trọng bị đột quỵ đã hé mở một viễn cảnh là phe nhóm ông Dũng có thể quậy trở lại trong đại hội 13, nên Trần Bắc Hà chấp nhận cái chết không cung khai để “hy vọng” phe ông Dũng phục hoạt và cứu người con trai ông Hà là Trần Duy Tùng cũng đang bị truy tố và bắt giam vì liên quan đến vụ mua bán Tổng Công Ty Cổ Phần Cảng Quy Nhơn vào cuối tháng Ba, 2019.   Rõ ràng là cuộc chiến đốt lò của ông Nguyễn Phú Trọng đã có những diễn biến bất ngờ khó hiểu, kể từ ngày ông Trọng bị đột quỵ khi đến thăm Kiên Giang đột ngột vào ngày 14 tháng Tư, 2019. Trọng tính không bằng Trời tính là vậy!   Trung Điền https://viettan.org/nguyen-tan-dung-lai-thoat-nua/  
......

Lương tri con người và sự diễn biến

 Đỗ Ngà - Fb DO Van Nga Để có những con người ngồi trong Quốc hội và Hội Đồng Nhân Dân gồm những đảng viên đảng cộng sản, thì nhân dân phải mất 3600 tỷ để đảng diễn vở kịch “Bầu Cử”- một vở kịch mà Đảng lên kịch bản trước đó với tên gọi là “cơ cấu” hoặc “Quy hoạch nhân sự”.  Kết quả của vở kịch  96% đảng viên ĐCS trong Quốc hội, hầu hết trong họ là quan chức các lớn trong chính quyền, và 4% là người không phải đảng viên ĐCS. Nói là không phải đảng viên, nhưng không có nghĩa họ là người của dân thật sự mà vẫn là người của đảng, nói lời ủng hộ cho Đảng. Trong Quốc hội, thật sự không biết chỗ nào giành cho tiếng nói nhân dân lọt vào nữa.   Mỗi một địa phương có một trưởng đoàn đại biểu quốc hội, người làm trưởng đoàn là người quyền lực nhất địa phương đó – tức bí thư tỉnh hoặc thành phố. Từ trong tổ chức, mọi người có thể thấy, trưởng đoàn đại biểu quốc hội là người nhận chỉ thị của Trung Ương Đảng về họp phổ biến cho thành viên đoàn, và những người này lên Quốc hội dựa theo những thứ đã triển khai trước đó mà giả vờ bàn rồi gật thôi. Để thêm mắm thêm muối cho Quốc hội này, họ cũng tạo ra những người nói lên ý kiến trái chiều. Bằng cách nào? Bằng cách, trưởng đoàn đại biểu Quốc hội chỉ thị cho một vài khuôn mặt quen thuộc đứng lên nói lời phản biện. Mục đích chỉ thị những kẻ phản diện trong Quốc hội này rất quan trọng: thứ nhất, nó tạo ra một vở kịch màu dân chủ để qua mặt nhân dân; thứ nhì nó xoa dịu lòng dân. Và vì thế, tuy vẫn lác đác có ý kiến trái chiều trong Quốc hội nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện những phản biện đó được  Quốc hội thông qua.   Để chuẩn bị vở diễn, trước khi Quốc hội nhóm họp, thì ĐCS cho tổ chức Hội Nghị Trung Ương để triển khai ý đồ của Bộ Chính Trị. Sau đó những ông trưởng đoàn đại biểu về địa phương chỉ huy đoàn đại biểu Quốc hội của địa phương mình nói gì, và gật gì. Thế là các thành viên của đoàn đại biểu Quốc hội địa phương mang những thứ đã được quán triệt ấy đến Quốc hội diễn cho nhân dân xem.    Có một chuyện hết sức buồn cười ở chỗ, Hội Nghị Trung Ương là ngày họp lên kịch bản chỉ mất nhiều nhất là 6 ngày, thế nhưng kỳ họp Quốc hội thì thời gian diễn mất từ 20 ngày đến 30 ngày. Vì thế những chủ trương lên kịch bản ở Hội Nghị Trung Ương khi mang ra Quốc hội, những diễn viên này diễn chỉ chừng 6 ngày là xong, còn lại một thời gian rất dài họ không có kịch bản để diễn. Chính vì thế nên những diễn viên này mịa phịa ra chuyện tào lao để diễn hết sức hài hước. Mỗi ngày cái Quốc hội như sân khấu kịch này tốn 1 tỷ đồng để bàn chuyện ruồi bu. Ở kỳ họp Quốc hội vừa qua, khi hết kịch bản đám diễn viên ấy đã đem mông háng Ngọc Trinh ra bàn. Bàn hết chuyện mông háng Ngọc Trinh mà quỹ thời gian còn quá nhiều, thế là họ lại phịa ra cái “ngày của đàn ông” để mà bàn. Hết chuyện “ngày của đàn ông” thì cũng còn thời gian quá nhiều, thế là có anh diễn viên nào đấy lại phịa ra “phí chia tay” vv.. Nói chung, khi hết việc Đảng giao họ cố tình nói xàm cho hết thời gian dự trù, mà cứ mỗi ngày trôi qua như vậy họ đốt hết 1 tỷ đồng tiền thuế của dân. Nếu là người có lòng tự trọng, khi nhìn vào những trò hề vô bổ mà đốt tiền dân như thế này, ắt hẳn sẽ thấy phẫn nộ vì  thì nó quá khốn nạn. Mới đây Bà Nguyễn Thị Kim Ngân có thú nhận “Kỳ vừa rồi có phiên họp Quốc hội vắng tới 100 đại biểu” cho thấy, trong 465 đại biểu thì có người cũng thấy họ đã làm chuyện vô ích nên họ đã nghỉ không đi. Tôi cho rằng, những con người này có nhận thức khá hơn những con người đều đều vác mặc đến chỗ gọi là “Quốc hội” đó để diễn. Diễn những vỡ kịch vô bổ nhưng đốt hàng tỷ đồng tiền tiền tươi thóc thật của nhân dân, thì người có lương tri nào cũng thấy xấu hổ.    Thật ra, để đi họp Quốc hội rất sướng, mỗi đại biểu được cấp kinh phí, được lo chỗ ở vv.. nói chung được lo đến tận răng từ tiền thuế của dân. Vả lại ra Hà Nội họp Quốc hội, thì đó cũng là cơ hội để những diễn viên ấy được đi chơi, được tham quan đây đó ở Hà Nội. Thế nhưng kỳ họp vừa rồi lại có đến 100 người vắng mặt? Chính cái vắng mặt này đã cho thấy, đâu đó từ trong suy nghĩ, những con người này đang tránh né sự khốn nạn mà đảng đã dựng lê để lừa đảo nhân dân. Vắng họp, nhưng đó một tín hiệu cho tháy họ họ đang tự diễn biến chăng? Rất có thể họ tự diễn biến, không phải họ diễn biến bởi “thế lực thì địch” nào tác động, mà là họ tự diễn biến bởi trong họ còn sót lại chút lương tri của của con người đích thực.        Thực sự, chỉ cần có chút lương tri, con người CS sẽ tự diễn biến chứ chẳng phải cần đến thế lực nào tác động. Bởi vì, sống với CS là sống chung với giả dối và gain ác. Cho nên không cần chửi Cộng Sản, chỉ cần nói sự thật có cơ sở thì sẽ thúc đẩy tự diễn biến xảy ra trong ĐCS mà thôi. Khi tự diễn biến xảy ra, nòng súng và thanh gươm của ĐCS sẽ bị hoen rỉ và mục nát. Đó là một con đường đấu tranh lợi hại. Hãy kiên trì, đừng nóng vội.    Đỗ Ngà - Fb DO Van Nga     Tham khảo:   https://thanhnien.vn/thoi-su/de-xuat-chi-3600-ti-dong-cho-bau-cu-691522.html   https://tuoitre.vn/ky-vua-roi-co-phien-hop-quoc-hoi-vang-toi-100-dai-bieu-20190716093855163.htm
......

Hiệu ứng Trần Bắc Hà trong những ngày tới

Thach Vu Với quá khứ là cận thần chuyên lo khâu tài chính của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, với ghế bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch ngân hàng BIDV, khó ai có thể tin chế độ ở tù, dù là tù tạm giam, của ông Trần Bắc Hà thấp hơn chế độ dành cho các tướng công an. Nghĩa là, ở tù theo kiểu phòng lạnh với cơm bưng nước rót. Các tù nhân khác xếp hàng xin chân phục dịch. ông Trần Bắc Hà - TT Nguyễn Tấn Dũng Kể ra như thế để thấy xác suất ông Hà chết vì tai nạn lao động, vì thiếu thuốc men, vì bị đánh bởi bạn tù hay quản giáo là cực thấp. Chỉ có 2 lý do hợp lý về cái chết nhanh chóng sau 7 tháng tạm giam của ông là: - Chết vì biết quá nhiều và đang khai ra quá nhiều người. - Chết vì tài sản còn quá nhiều và đã lỡ lộ ra chìa khóa nơi cất giữ. Trong tình trạng "khi quá đói, thịt nào cũng thơm ngon, đặc biệt thịt các đồng đội béo tốt" hiện nay, hiệu ứng Trần Bắc Hà sẽ tăng rất nhanh trong những ngày tháng tới. Đó là: Những kẻ "biết quá nhiều" sẽ: - Chạy bằng mọi giá ra nước ngoài như Trịnh Xuân Thanh. Và khi ra được rồi sẽ không lê la ngoài ánh sáng như Trịnh Xuân Thanh. - Chuyển tài sản và gia đình ra nước ngoài gấp rút hơn nữa theo tinh thần "nhà hàng xóm đang cháy rồi". Những kẻ "sợ bị biết quá nhiều" sẽ: - Bằng mọi giá không để các bí mật ra tới khâu tòa án. Như thế đã là quá trễ. - Tranh nhau nắm công an bằng mọi giá. Trong không khí chiến tranh tương tàn hiện nay, KHÂU ĐIỀU TRA LÀ TẤT CẢ! Vũ Thạch - Fb Thach Vu ***** Chết đúng quy trình Dương Quốc Chính Ông Bắc Hà đã đi gặp bác Hồ đúng quy trình, trong thời gian tạm giam. Ông đã nhiều lần được đề nghị ra tòa, trong vai trò liên đới, trước khi bị bắt, nhưng ông không có duyên với tòa! Ông đã chết, hoàn toàn chưa có án, sạch sẽ, chưa có tì vết. Vì thế mà tài sản cũng như uy tín của ông chả hề suy suyển. Vì dưới pháp luật, người ta chỉ có tội khi đã có phán quyết của tòa và pháp luật không thể xử 1 hồn ma. Ông chỉ mới bị kỷ luật đảng mà thôi, trước nhân dân ông hoàn toàn trong sạch! Dự là mấy hôm nữa sẽ có KOLs lên tiếng kể công cho ông. Cái chết của ông Bắc Hà, cũng như ông Quý Ngọ, thậm chí cả ông Đại Quang, hoàn toàn đúng quy trình, một cái chết đẹp và hợp lý cho gia đình ông, cho các đồng chí anh em, cho đảng và chú phỉnh, chỉ hơi rắc rối 1 chút cho các anh em canh tù. Nghe nói, ông Bắc Hà bị nhiều bệnh hiểm nghèo, trong đó có bệnh ung thư gan. Nói gì nói, tù quan lại nói chung vẫn sướng, khó mà đột tử trong tù như bọn khố rách áo ôm. Vì thế, cái chết của ông chỉ có thể rơi vào 3 khả năng. Một là, ông được các đồng chí thuyết phục để quyên sinh, cảm tử cho đồng đảng quyết sinh. Đại khái là: "Chú đã từng dưới 1-2 người, trên cả vạn người, sung sướng cỡ nào cũng trải qua rồi, tiền nhiều ức vạn rồi, không còn phải nuối tiếc gì ở chốn xã nghĩa này nữa. Chú cứ thanh thản mà ra đi, các anh sẽ lo hậu sự cho chú, cho vợ con chú. Đằng nào chú cũng bệnh tật rồi, không thọ được bao lâu nữa. Chi bằng chú chịu khó đi trước các anh 1 vài năm, sẽ vẹn cả mấy đường. Mấy năm nữa anh em ta lại đoàn tụ vui vầy, xoăn phải sáo". Thế là: "Em xin vâng, xin phép đi trước, anh và các cháu ở lại bảo trọng". Thế là 1 cơn bạo bệnh nổi lên, tập thể y bác sỹ trong trại đã hết lòng cứu chữa, nhưng tuổi cao sức yếu, đồng chí, à quên, nguyên đồng chí, đã ra đi gặp bác Hồ. Kịch bản thứ 2 là, ông BH đã khai tuốt tuột, chả nể anh em gì cả sất và chỉ chờ dịp ra tòa để khai bằng sạch, hòng cố tránh cái án tham nhũng (tử hình), cố cho bằng đồng chí #, để được toàn mạng. Thế là, "ông anh" phải tìm cách hạ thủ ông trong trại, đằng nào chả có bệnh rồi. Tuy nhiên, giả thiết này khó có thể xảy ra hơn trường hợp 1, nhưng không phải là không thể. Kịch bản thứ 3 là ông cố tình tự vẫn, 1 cách cá nhân, không qua thương thảo, để bảo toàn khí tiết của 1 doanh nhân cách mạng. Trường hợp này thường xảy ra khi ông được ai đó tiết lộ là chắc chắn sẽ bị đưa vào án tham nhũng, để tử hình. Chuyện này rất bình thường ở chế độ xã nghĩa, vì án của ông là do BCT, là do bác cả quyết, tòa chỉ diễn cho vui thôi. Chả nhẽ đốt cả đống củi mà chả hi sinh thanh nào, dân nó lại chửi là đảng diễn trò. Nhất quyết là ông không thể đột tử 1 cách tự nhiên, bình thường được. Thành kính phân ưu với gia quyến của ông. Mong ông sớm gặp các đồng chí của mình, chết trẻ khỏe ma ông ạ. Mấy đồng chí già xuống sau rồi sẽ bị ông xử lại hết. Để ngăn ngừa anh em củi chết đúng quy trình, đề nghị BCT ra nghị quyết là sẽ xử cả vong củi. Mình đã cách được cả chức trong quá khứ thì mình xử cả vong thì có sao đâu? Thời phong kiến, người ta còn quật cả mồ kẻ thù, nghiền nát xương cốt rồi thả trôi sông, nhốt cả sọ vào tù. Vua Minh Mạng còn cho xích cả mộ Lê Văn Duyệt, vì tội của thằng con nuôi. Vậy nên đảng cho cô Yến gọi vong anh em củi lên đấu tố, tịch thu tài sản, rồi cho nhốt vong vào chùa Hàm Long (chuyên nhốt vong) là chuẩn, thể hiện sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật. Đừng tưởng chết mà thoát đâu. Chứ còn để thế này thì anh em sẵn sàng hi sinh đời bố củng cố 5 đời sau.  FB Dương Quốc Chính  
......

Các bạn Nhật khổ rồi

Lương Ngọc Huỳnh - Chú Tễu Ở Hà Nội có một hội mà giới chuyên môn hay gọi là " Hội Quỷ Môn Quan" gồm có hơn chục giáo sư, tiến sĩ tạm gọi là hội đồng khoa học. Hội này không có thiện chí với những công nghệ mới nếu họ không được tham gia bàn và cãi, thứ nữa là các hệ thống quản lý ngành vô cùng lắt léo và đều có vấn đề trong đó. Cuối năm 2009 đến đầu năm 2010 tôi đã vấp phải muôn vàn khó khăn khi đưa công nghệ xử lý nước thải bằng từ tính của Nga kết hợp với Israel về định bụng làm sạch sông tô lịch và các hồ nước không sạch để chào mừng 1000 năm thăng long. Ngoài công nghệ của chúng tôi ra thì còn có nhiều công nghệ khác của nhiều nước cùng đưa về, trong đó có cả vợ của các đồng chí lãnh đạo, và một đồng chí đương nhiệm là đại sứ ở nước ngoài lúc bấy giờ, cũng đưa công nghệ từ Bỉ, Hàn Quốc, và một vài trường hợp khác của Việt Nam cùng tham gia mong muốn cống hiến. Chúng tôi họp lên họp xuống, báo cáo các loại báo cáo, và tất cả các nhóm muốn tham gia đều phải "biểu diễn thí nghiệm" để cho Hội quỷ môn quan này xem xét! Trong thời điểm ấy chúng tôi là đơn vị đưa ra giá thành rẻ nhất nghĩa là 8 ngàn đồng cho 1 mét khối nước thải được làm sạch đạt chất lượng từ B2 trở lên, nghĩa là loại nước có thể sử dụng trong sinh hoạt như tắm rửa... còn lại tất cả các công nghệ khác thì đều báo giá từ 25 ngàn đến 45 ngàn cho việc làm sạch 1 mét khối nước thải. Các công ty khác chủ yếu xử lý nước thải bằng công nghệ vi sinh, hoặc hoá chất, chỉ có mỗi chúng tôi là không dùng bất kỳ loại hoá chất nào. Tất cả chúng tôi lao vào như thiêu thân nào họp nào bàn nào làm thử.... tốn tiền tốn của mất gần 6 tháng lăn lộn, nhưng vẫn không thể làm hài lòng hội quỷ môn quan này! Cuối cùng chúng tôi chết sặc tiết, tôi thiệt hại mất hơn 4 tỷ tiền đầu tư máy móc, tiền chi phí các loại....! Nhưng có nhóm còn mất nhiều hơn chúng tôi! Mặc dù lúc bấy giờ thứ trưởng bộ khoa học công nghệ Nguyễn Văn Lạng rất nhiệt tình giúp đỡ và mong đưa các công nghệ tiên tiến vào để xử lý môi trường, anh Lạng ngày đêm cùng chúng tôi ra hiện trường những nơi thử nghiệm để trực tiếp kiểm tra đánh giá kết quả khách quan. Nhiều lãnh đạo nhà nước lúc bấy giờ cũng rất quan tâm và ủng hộ. Nhưng "Hà Nội Không Vội Được Đâu" đã trở thành cái đầu lâu xương chéo nhiều năm nay rồi! Ở đó có hoàng thành kiên cố phòng thủ vững chắc, có những con người có thể gọi là bố của các loại ma, họ không thích chia sẻ quyền lực và lợi nhuận! Tôi xin làm thí điểm ở một đoạn sông Kim Ngưu, tôi cũng đã đến để báo cáo với anh cả một thành viên này rồi, mấy ngày đầu làm tốt, tiến triển từng ngày, thậm chí có lãnh đạo cao cấp của đảng, nhà nước vì thương anh em vất vả đêm đến còn đưa cho tôi bánh nói rằng mang ra cho anh em ăn đỡ đói. Đến ngày thứ 3 tự nhiên nước dâng lên đột ngột, các loại nước bẩn ầm ầm kéo đến tràn vào khu vực thực nghiệm!!! Xong phim.... thằng bé chỉ còn biết chửi thề thôi! Điện thoại báo cáo với anh Lạng rồi điều tra thì biết anh cả cấp thoát nước mở cống?! Chiều hôm sau gặp anh Tuân lúc đó là tổng giám đốc Vinaconex anh ấy nói: "Huỳnh ạ em muốn yêu nước thì em phải làm đơn"! Nghe xong câu nói đó tôi buồn hẳn và thất vọng hoàn toàn. Tôi cũng báo cáo toàn bộ sự thất bại đó cho chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, thường trực ban bí thư Trương Tấn Sang, và phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân biết, đồng thời xin rút lui toàn tập vì không thể chọc thủng hàng phòng thủ của thủ đô Hà Nội! Cho nên tôi rất thương các bạn Nhật Bản, các bạn cứ từ từ chiến đấu và cảm nhận, tôi rất mong có một ngày dòng sông Tô Lịch và các dòng sông chảy qua Hà Nội trong xanh hiền hoà, nam thanh nữ tú bơi thuyền thiên nga vui đùa té nước cùng những tiếng sáo diều và tiếng cá nhảy lõm bõm trên những dòng sông thơ mộng uốn lượn trong lòng thủ đô ngàn năm văn hiến. Tôi chia buồn cùng các bạn Nhật!  
......

Bàn chuyện cái lu!

Lê Thị Kim Dung| Sau một tuần “dậy sóng” vụ cái lu chống ngập lụt của bà Phó Giáo sư – Tiến Sĩ, đại biểu HĐND Thành Hồ Phan Thị Hồng Xuân, dư luận vẫn tiếp tục đề cập về bà không chỉ là chuyện cái lu mà còn liên quan đến một số phát biểu linh tinh trên báo chí sau đó. Phải nói là “sáng kiến” của bà Tiến Sĩ Xuân lập tức gây ra một trận bão chế giễu của công chúng không chỉ là sự ngớ ngẩn mà còn mang tính ngụy biện không xứng với một trí thức có học vị cao như bà. Để biện minh cho đề nghị của mình, bà tiến sĩ cho biết đây là từ sự gợi ý của một chuyên gia Nhật Bản trong tổ chức JICA (Japan International Cooperation Agency – Tổ chức Hợp Tác Quốc Tế Nhật Bản) một tổ chức chuyên lo công việc hợp tác đầu tư có văn phòng tại Việt Nam. Biện minh của bà Xuân càng làm lộ ra thêm sự thiếu hiểu biết của mình. Vì chuyện các gia đình người Nhật có cái lu chứa nước mưa để có nước ngọt khi trời mưa là một truyền thống; nghe qua ai cũng hiểu vì đây là một đảo quốc với gần 7.000 hòn đảo lớn nhỏ. Nhưng từ ý kiến có cái lu chứa nước mưa, bà Tiến Sĩ Xuân lại bám lấy như một hình thức đáng noi theo từ một xứ văn minh để đưa ra đề nghị dân thành Hồ nên sắm lu nhằm chứa nước mưa chống ngập lụt. Đây quả là một chuyện không những khôi hài mà nó còn cho người ta thấy những đầu óc trống rổng, ngờ nghệch của thành phần cán bộ lãnh đạo trong guồng máy độc tài. Bà Xuân còn nguỵ biện thêm, bà dùng chữ “cái lu” vì muốn nhấn mạnh khía cạnh “tri thức bản địa” theo dân gian. Đến đây thì bà tỏ ra đi quá xa chuyện chống ngập vì sẽ không ai hiểu nổi cái “tri thức bản địa” trong chuyên chống ngập của bà. Là một đại biểu HĐND, bà tiến sĩ lại quên một thực tế là trong hơn 10 năm qua cứ mỗi cơn mưa, thành Hồ nhanh chóng biến thành một cái hồ vĩ đại, chẳng những chứa nước mưa mà còn chứa đủ loại nước cống rãnh và rác rưởi. Những dự án chống ngập lụt mùa mưa đã chi ra trên 22.000 tỷ đồng nhưng hoàn toàn thất bại, đến nổi có lúc cán bộ Sở Giao Thông Vận Tải phải lấp liếm “chỉ tụ nước sau cơn mưa”. Và nghe đâu tới năm 2020, nhà nước còn bỏ tiền chống ngập tới 120.000 tỷ đồng! Với cương vị là đại biểu HĐND đồng thời là một trí thức có học vị cao hơn người, lẽ ra bà Xuân phải thấy rõ đề nghị của mình không khả thi chút nào. Vì lẽ khi trời mưa, độ nước đổ xuống ào ạt làm sao các lu có thể hứng kịp khi phân tán từng nhà. Chỉ nghĩ đến điều đơn giản ấy thôi, ai cũng thấy đề nghị của bà tiến sĩ là không thể thực hiện. Thế nhưng tại sao bà đưa nó ra diễn đàn của những đày tớ dân, hẳn cũng có lý do thầm kín nào đó… Giả sử “sáng kiến” của bà Xuân được áp dụng, ai sẽ là người bỏ tiền ra mua hàng triệu cái lu, hay áp dụng chính sách “nhà nước và nhân dân cùng làm, nhân dân làm trước nhà nước theo sau…”? Rồi nước mưa hứng được trong tình trạng ô nhiễm không khí trầm trọng như hiện nay ở Việt Nam thì ai dám dùng nước này, hay chỉ để nuôi trứng muỗi để phát triển bệnh sốt xuất huyết. Nhưng điều quan trọng hơn hết là qua đề nghị khôi hài của bà Xuân, người dân thấy được cách chuyển hướng dư luận của chế độ toàn trị CSVN khi họ đang rơi vào bế tắc của vụ án cướp đất Thủ Thiêm. Cùng lúc dư luận cũng đang vô cùng chú ý vào vụ Lê Tấn Hùng em trai cựu bí thư Lê Thanh Hải bị tống giam ở Hà Nội làm cho nội bộ thành uỷ thành Hồ lâm vào bối rối. Trước nay đối với Lê Tấn Hùng dù tội trạng không còn che giấu được, thành uỷ cũng chỉ giơ cao đánh khẽ… Về phía người dân thì đang chờ xem liệu con sâu chúa Lê Thanh Hải chừng nào biến thành củi. Cạnh đó đây cũng là thời điểm mà dư luận cả nước đang hướng về Biển Đông với vụ đảng mang tàu cảnh sát biển rụt rè đối đầu tàu Trung Cộng ở bãi Tư Chính. Nói cách khác với đề nghị ngớ ngẩn của mình, bà Xuân được dùng như một vụ “xả xú-bắp” của đám thành uỷ thành Hồ để giải vây cho những bế tắc vô phương cứu vãn. Cho nên trong tinh thần cảnh giác âm mưu lừa bịp của cộng sản, ta phải coi vụ chọc cười của bà tiến sĩ Hồng Xuân không đơn thuần chỉ là sự ngờ nghệch làm trò hề của một đề nghị bất khả thi, mà nó còn chủ đích điều hướng dư luận có lợi cho chế độ. Lê Thị Kim Dung  
......

Bắc Kinh muốn gì qua vụ HD-8?

Phạm Chí Dũng -VOA| Vụ Trung Quốc điều tàu HD-8, được hộ tống bởi hai tàu hải cảnh, bất thần xâm nhập khu vực bãi Tư Chính ở vùng biển đông nam Việt Nam để ‘thăm dò dầu khí’ là hoàn toàn bất thường. Những bất thường Điểm bất thường đầu tiên là Bãi Tư Chính là nơi mà phía Trung Quốc đã quá am hiểu về trữ lượng dầu khí và còn nhẵn mặt trơ tráo đến độ đã từng hai lần – vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2018 – cho nhiều tàu chiến vây bọc khu vực này để buộc Repsol – đối tác Tây Ban Nha liên doanh với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) – phải rút lui khỏi dự án khai thác mỏ Cá Rồng Đỏ trong khu vực này. Điểm bất thường thứ hai là vụ ‘thăm dò dầu khí’, mà thực chất là thêm một vụ khiêu khích với những đường nét rất quen thuộc của Bắc Kinh, trùng với khoảng thời gian quan chức chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đi Bắc Kinh để bàn với Tập Cận Bình về ‘làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện’ và ‘đại cục’. Điểm bất thường thứ ba là vụ khiêu khích trên xảy ra khi đang ngày càng dày hơn tin tức về chuyến đi Mỹ của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng, hoặc một quan chức trong ‘tam trụ’ được Trọng chọn làm người thay mình đi Mỹ – có thể là Nguyễn Thị Kim Ngân hoặc Nguyễn Xuân Phúc. Một chuyến đi mà chắc chắn không khiến Bắc Kinh hài lòng, nếu không nói là ngược lại. Và thêm một điểm bất thường nữa, mà có lẽ chưa phải cuối cùng và cần được xem là quá đỗi bình thường, là thói câm nín của giới tuyên giáo và báo chí nhà nước Việt Nam trước vụ khiêu khích trên, như đã từng câm lặng trong rất nhiều lần xảy ra khiêu khích từ Bắc Kinh trên Biển Đông. Bài cũ diễn lại Vụ tàu HD-8 của Trung Quốc xâm nhập Bãi Tư Chính thật ra chỉ là bản sao của những vụ xâm nhập, khiêu khích và bắn thông điệp cảnh cáo Việt Nam xảy ra trước đó. Vào ngày 10 tháng 4 năm 2019, Trung Quốc đã tung ra động thái sẽ đưa giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai là Dongfang 13-2 CEPB vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông, trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ – chuyến đi mà khi đó dự kiến có thể diễn ra vào mùa hè năm 2019. Không biết có phải trời ‘thương’ Nguyễn Phú Trọng hay do ‘sức khỏe có vấn đề’, hoặc bởi cả hai lý do này, 4 ngày sau đó ông ta suýt chút nữa đã ‘tịch’ hẳn ở xứ Kiên Giang ‘nhà Ba Dũng’ bởi một cơn bạo bệnh được cho là đột quỵ không mấy êm ái, để từ đó đến nay Trọng đã thoát được cảnh phải hành hương đến Bắc Kinh. Còn trước đó, từ năm 2014 Trung Quốc đã sử dụng chiến thuật cho giàn khoan và tàu ‘thăm dò dầu khí’ vào biển Đông để khủng bố tâm lý rệu rã của chính thể bị cộng đồng lên án là ‘hèn với giặc, ác với dân’. Tháng 5 năm 2014, giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đã lần đầu tiên tấn công vào Biển Đông, chen lấn vào vùng hải phận của Việt Nam và như một cú tát tai nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị ở Hà Nội, nhất là với những quan chức Việt vẫn còn mộng mị ngủ ngày mà đã biến thành cơn mê sảng bi kịch trong thói đu dây quốc tế giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, đã xuất hiện những kế hoạch khai thác dầu khí ở giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với những đối tác nước ngoài là Repsol tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở vùng biển Đông Nam, với Tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga tại mỏ Lan Đỏ, cũng như bắt đầu có kế hoạch thăm dò khai thác với tập đoàn dầu khí khổng lồ ExxonMobil của Mỹ tại mỏ Cá Voi Xanh ở vùng biển Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đến năm 2015, giàn khoan Hải Dương 981 lại hiện hình một lần nữa. Ngày 6/5/2015, website của Cục Hải sự Trung Quốc đăng tải thông báo về hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 tại giếng Lăng Thủy 25-1S-1 ở Biển Đông. Hoạt động này là đáng được chú ý, dù khi đó Hải Dương 981 vẫn nằm ngoài vùng lãnh hải Việt Nam. Một tuần sau thông báo trên của Cục Hải sự Trung Quốc, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius bất ngờ thông báo “Chúng tôi sẽ tiếp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với nghi thức cấp cao nhất”. Đến tháng 7 năm 2015, Trọng chính thức đi Mỹ – chuyến công du đầu tiên của ông ta đến xứ Cờ Hoa mà đã được Tổng thống Barak Obama tiếp đón đặc cách như một nguyên thủ quốc gia tại Phòng Bầu Dục. Điều đáng nói là hình ảnh tái xuất mang tính khủng bố của Hải Dương 981 vẫn xảy ra dù Nguyễn Phú Trọng đã chấp nhận ‘đi Trung Quốc trước khi đi Mỹ’, khi tới Bắc Kinh vào tháng 4 năm 2015. Còn vào năm 2019, Trung Quốc lại khai triển chiến thuật ép và lấn từng bước: trước chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng hoặc một quan chức thay thế cho Trọng, tùy thuộc vào thái độ của Trọng với Tập ra sao mà giàn khoan Dongfang 13-2 CEPB sẽ nằm yên ở vùng chồng lấn biển hoặc lao thẳng vào hải phận Việt Nam theo đúng cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014, hoặc một lần nữa có đến vài trăm tàu các loại vây hãm khu vực Bãi Tư Chính để gây sức ép với giới chóp bu Việt Nam như đã từng làm vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2018, khiến Repsol rốt cuộc phải ‘bỏ của chạy lấy người’ và phía Việt Nam phải chấp nhận bồi thường cho Repsol khoản đầu tư ban đầu thăm dò dầu khí mà công ty này bỏ ra lên đến 200 – 300 triệu USD. Tập Cận Bình muốn gì? Khác với hai năm 2017 và 2018 là những thời điểm đường lưỡi bò vẽ bổ sung của Trung Quốc đã quét qua gần như toàn bộ các lô dầu khí nằm trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam, còn Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị khi đến Hà Nội đã trắng trợn đến mức ra yêu sách bắt Việt Nam phải ‘cùng hợp tác dầu khí’, với tỷ lệ ăn chia có thể lên đến 60% cho Trung Quốc và chỉ còn lại 40% cho chủ nhà Việt Nam – được hiểu thực chất là phải mời một tên cướp vào nhà mình để cùng chia đôi tài sản…, nguồn cơn Trung Quốc gây ra khiêu khích vào năm 2019 rất có thể là do Nguyễn Phú Trọng ‘trốn biệt’ mà không chịu đi ‘chầu thiên tử’. Vụ tàu HD-8 tiến thẳng vào Bãi Tư Chính xảy ra đồng thời với sự hiện diện của Nguyễn Thị Kim Ngân ở Bắc Kinh cho thấy rất rõ là Tập Cận Bình đã không hề thỏa mãn với một Kim Ngân thay thế, mà tiếp tục gây sức ép đòi hỏi phải đích thân Nguyễn Phú Trọng đi Trung Quốc. Nhưng cho dù có phục hồi sức khỏe để thực hiện chuyến đi ‘Trung Quốc trước, Mỹ sau’, chuyến đi này chắc chắn sẽ mang lại cho Nguyễn Phú Trọng những thất lợi lớn về chính trị và cả rủi ro sinh mạng khó lường. Có lẽ trong cái liếc mắt nhăn mày của ‘thiên triều’, Trọng không còn được xếp vào hàng ‘ngoan hiền dễ bảo’ nữa. Ngoài ra, tuy HD-8 chỉ là một vụ khiêu khích nhỏ, nhưng lại toát lộ dấu hiệu về sức ép và gây hấn của Bắc Kinh có thể gia tăng đột ngột và thô bạo hơn hẳn trong thời gian tới, do đó đòi hỏi chủ trương ‘gần Mỹ’ hoặc ‘dựa Mỹ’ của Nguyễn Phú Trọng cần được triển khai nhanh hơn, đặc biệt là mối quan hệ hợp tác quân sự Việt – Mỹ không còn nhiều thời gian để chơi trò vờn bắt nhau mà phải đi vào những vấn đề thực chất hơn nhiều, như khi nào một hàng không mẫu hạm của Mỹ sẽ chính thức có mặt ở quân cảng Cam Ranh, đồng thời Nguyễn Phú Trọng phải gấp rút đi Mỹ, hoặc thậm chí phải tính toán đến khả năng chọn người thay thế ông ta đi Mỹ, cho dù Trọng vẫn muốn chỉ mình ông ta – với tư cách nguyên thủ quốc gia – được Donald Trump đón tiếp bằng thảm đỏ và trong Phòng Bầu Dục ở Washington./.  
......

Bí mật quốc gia

[ HH] Hội Anh Em Dân Chủ Việt Nam chúng ta hiện nay có 2 thông tin được xếp vào diện "bí mật quốc gia", không được công bố: 1. Thông tin về sức khỏe của Tổng Bí thư/ Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Lãnh đạo nhận lương từ tiền thuế của người dân, tuy nhiên điều nghịch lý là người dân không được biết sức khỏe của họ đang ở mức nào, mạnh yếu ra sao, có thể lãnh đạo đất nước được hay không. Ở những nước khác, thông tin về sức khỏe của lãnh đạo là điều phải minh bạch. Điều này hết sức quan trọng, bởi sức khỏe của lãnh đạo không chỉ liên quan đến an ninh quốc gia, mà còn ảnh hưởng đến các mối quan hệ ngoại giao, làm ăn kinh tế. 2. Có hay không chuyện Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương 8 và nhiều tàu hải giám xâm lược Bãi Tư Chính? Cho đến nay vẫn không có bất kỳ cơ quan nhà nước, Bộ Ngoại giao, báo chí truyền thông nào nói về về sự kiện trên. Trong khi các trang tin như BBC, RFA, VOA, SCMP đưa tin với những cập nhật rất chi tiết về hành động xâm lược nghiêm trọng và nguy hiểm trên của Trung Quốc. Thật nghịch lý, trong một đất nước mà giới lãnh đạo tuyên truyền là "dân chủ gấp vạn lần tư bản", nhưng người dân muốn biết giặc xâm lược đến đâu thì phải đào hầm, vượt tường lửa để đọc ở các trang báo nước ngoài. Tại sao những điều hết sức bình thường ở những quốc gia khác, nhưng tại Việt Nam lại trở thành bí mật? Câu trả lời là vì Đảng Cộng sản đang sợ dân. Đảng sợ lòng dân không thuận ý đảng, đảng sợ nói rồi dân lại thêm thù "bạn vàng" của đảng!  
......

Pages