Không phải có tiền là có thể bụm miệng người ta…

Trương Nhân Tuấn

Theo nhận định của nhiều chuyên gia, đặc biệt theo bảng xếp hạng của một tờ báo danh tiếng ở Mỹ, Việt Nam là một quốc gia có chỉ số “tư bản thân hữu – crony capitalism” cao.

Thế nào là “tư bản thân hữu”?

“Tư bản thân hữu” là một thuật ngữ kinh tế và chính trị mô tả một hệ thống mà trong đó sự thành công trong kinh doanh (của một nhóm tài phiệt) không đến từ sự cạnh tranh lành mạnh trong thị trường tự do, mà thông qua mối quan hệ gần gũi và ưu đãi chính trị giữa giới tài phiệt này với các quan chức chính phủ.

Trong hệ thống này, lợi nhuận được đạt mức tối đa không nhờ ở các việc như đổi mới, hiệu quả trong sản xuất, hay giá trị thị trường thực tế… mà nhờ vào việc khai thác các mối quan hệ chính trị.

Hiện tượng “tư bản thân hữu” phát triển mạnh mẽ trong các quốc gia hậu cộng sản, như Nga (và Việt Nam). Đặc điểm chung ở các quốc gia này là:

1. Tài phiệt thâu tóm của cải của quốc gia
Trường hợp nước Nga: Sau khi Liên Xô tan rã, các tài sản khổng lồ của nhà nước (như mỏ dầu, khí đốt, nhà máy lớn…) được tư nhân hóa một cách hấp tấp. Những người có quan hệ thân thiết với chính quyền, có khả năng vận động hành lang, đã dễ dàng mua lại những tài sản này với giá rẻ mạt, tạo ra một thế hệ tỷ phú mới được gọi là “tài phiệt” (oligarchs).

2. Luật pháp thiếu minh bạch, giúp quan chức dễ dàng tham nhũng và tài phiệt “lách luật”

3. Bảo kê chính trị
Các doanh nghiệp mới cần sự bảo vệ của chính quyền để tồn tại trong môi trường cạnh tranh không lành mạnh và phức tạp. Việc trao đổi lợi ích (đổi sự ủng hộ chính trị, tiền tài trợ cho các chiến dịch lấy sự ưu tiên pháp lý/ kinh doanh) là phổ biến.

Đối chiếu các sự kiện này qua cách hoạt động của hệ sinh thái Vingroup trên thực tế: (1) Khả năng tiếp cận tài nguyên (đất đai), (2) Sự hỗ trợ và ưu đãi chính trị lớn, và (3) Khả năng ảnh hưởng đến môi trường pháp lý.

Chúng ta có thể kết luận rằng, mô hình hoạt động của Vingroup mang nhiều đặc điểm của mô hình “tư bản thân hữu”, được định hình bởi thể chế và cơ chế đặc thù của Việt Nam.

Tức là sự thành công của Vingroup gắn liền với sự ủng hộ và bảo trợ chính trị của quan chức nhà nước Việt Nam. Vingroup được ưu đãi về đất đai, có khả năng “gọi vốn” dễ dàng. Đặc biệt khả năng ảnh hưởng đến môi trường pháp lý trong nước, như sử dụng công cụ pháp lý để đàn áp và bịt miệng những người chỉ trích.

Những ưu đãi của “nhà nước tư bản thân hữu” Việt Nam đã giúp Vingroup tích lũy được vốn liếng, tài sản, và sự hậu thuẫn chính trị. Từ nền tảng này ông Vượng và Vingroup vươn ra quốc tế, sử dụng các công cụ pháp lý của các nước dân chủ pháp trị ở Tây phương, muốn sử dụng tiền bạc để bóp chết các tiếng nói chống đối ở hải ngoại.

Có công bằng hay không, khi ông Vượng và Vingroup lấy sức mạnh từ nguồn tài sản của họ để đòi “sự công bằng pháp lý”, bằng cách yêu cầu các tòa án ở Đức, ở Canada… áp dụng các nguyên tắc công bằng, vô tư (với bằng chứng xác thực chứ không phải tin đồn) để bảo vệ danh dự?

Các cá nhân ở hải ngoại và những người chỉ trích trong nước không có khả năng nhận được các “bổng lộc thân hữu” để tạo ra lợi thế xuất phát điểm như Vingroup.

Nhưng khi đối diện với các cá nhân chỉ trích, Vingroup lại đòi hỏi phải được hưởng sự vô tư và công bằng tuyệt đối từ hệ thống pháp luật phương Tây, nơi họ không hề có đặc quyền chính trị.

Mục đích của ông Vượng và Vingroup không phải là thắng kiện, mà là muốn làm cạn kiệt nguồn lực (financial exhaustion) của nhà báo, buộc họ phải tự kiểm duyệt (self-censorship) hoặc gỡ bỏ thông tin.

Không! ở Châu Âu và các nước dân chủ pháp trị không hề có thứ công bằng như vậy dành cho ông Vượng và Vingroup nữa.

Liên minh Châu Âu đã thông qua các quy định chống SLAPP (Anti-SLAPP Legislation) nhằm bảo vệ các nhà báo, các nhà hoạt động, và các tổ chức phi chính phủ khỏi các hành vi lạm dụng hệ thống tư pháp này.

Một vài đặc điểm của Anti-SLAPP của Liên minh Châu Âu (SLAPP: Strategic Lawsuits Against Public Participation – Các vụ kiện chiến lược chống lại sự tham gia của công chúng):

1. Cơ chế xét xử sớm (Early Dismissal Mechanism):
Đây là biện pháp quan trọng, cho phép Thẩm phán:
Bác bỏ vụ kiện ngay lập tức: Nếu vụ kiện được xác định là hoàn toàn vô căn cứ hoặc mang tính lạm dụng (mục đích chính là quấy rối hoặc làm cạn kiệt tài chính của bị đơn), Thẩm phán có thể bác bỏ vụ kiện trong giai đoạn sớm nhứt của thủ tục tố tụng.
Trong một số trường hợp, chi phí (cho việc tìm bằng chứng) chứng minh (rằng vụ kiện không phải là lạm dụng) có thể được chuyển sang cho nguyên đơn (ông Vượng, Vingroup…).

2. Bồi thường chi phí pháp lý và thiệt hại
Khi vụ kiện SLAPP bị bác bỏ, nguyên đơn (ông Vượng, Vingroup…) phải chịu hoàn toàn chi phí pháp lý của bị đơn (nhà báo Lê Trung Khoa, cô Phương Ngô…).
Thẩm phán có quyền yêu cầu nguyên đơn (ông Vượng, Vingroup…) bồi thường thiệt hại cho bị đơn (Lê Trung Khoa, Phương Ngô) vì những tổn thất về mặt tinh thần, danh tiếng và kinh tế do bị kiện tụng lạm dụng.

3. Án phạt và các biện pháp răn đe
Án phạt: Tòa án có thể áp đặt án phạt (penalty) hoặc các biện pháp răn đe tương đương đối với những người khởi xướng (ông Vượng, Vingroup…) các vụ kiện SLAPP nhằm ngăn chặn các hành vi tương tự trong tương lai.

4. Bảo vệ Tính Toàn vẹn của Pháp luật EU (Chống Án lệ Nước thứ ba)
Các quốc gia thành viên phải từ chối công nhận hoặc thi hành các bản án về phỉ báng từ các quốc gia ngoài EU nếu bản án đó được coi là rõ ràng vô căn cứ hoặc lạm dụng (nghĩa là một vụ kiện SLAPP được thắng ở nước thứ ba sẽ rất khó được thi hành tại EU).

Tức là gì?
Là ông Vượng và Vingroup sẽ đi vào ngõ cụt, hoặc đi qua một cánh cửa rất hẹp để thắng kiện ở các vụ kiện gọi là SLAPP ở nước ngoài, đặc biệt ở châu Âu hay Canada.
Không phải hễ có tiền là bụm miệng người ta được đâu!