Tuyên bố Về thực thi quyền Dân sự và Chính trị

(Danh sách từ đợt 1 đến đợt 5) Hiến pháp hiện hành của nước ta quy định tại điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (mà Nhà nước Việt Nam ký tham gia ngày 24/9/1982) quy định cụ thể về quyền bày tỏ quan điểm, quyền hội họp và lập hội: “Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia” (trích điều 19[1]); “Quyền hội họp có tính cách hoà bình phải được thừa nhận” (trích điều 21); “Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình” (trích điều 22). Những quy định tương tự cũng có trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc được công bố ngày 10/12/1948 mà mọi quốc gia thành viên đếu phải tôn trọng [2].   Căn cứ vào những quy định đó, các ý kiến đóng góp cho việc sửa đổi Hiến pháp khác với quan điểm của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội lập, đặc biệt là về những điều cơ bản của thể chế chính trị (như Kiến nghị do 72 người ký trực tiếp ngày 19-1-2013, thường được gọi tắt là Kiến nghị 72, Tuyên bố của Hội đồng Giám mục, Tuyên bố công dân tự do, ý kiến trên trang mạng Cùng viết Hiến pháp, và nhiều ý kiến của đồng bào trong và ngoài nước trên các trang thông tin điện tử) là hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp và Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (dưới đây gọi tắt là Công ước quốc tế). Điều đó cũng đúng với nhiều tiếng nói đòi dân chủ và thực hiện các quyền tự do đã được quy định trong Hiến pháp, gắn liền với yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, hòa nhịp với các hình thức đấu tranh của nông dân bị mất đất, của công nhân đòi việc làm và cải thiện đời sống. Những tiếng nói đó của các tổ chức và nhóm như Hội đồng Giám mục, nhóm các chức sắc tôn giáo, nhóm công dân tự do, nhóm Tuyên bố 258, câu lạc bộ NoU, v.v., hoặc của nhiều cá nhân ở trong và ngoài nước mang tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ, đều được bày tỏ một cách ôn hòa, hợp pháp. Chúng tôi, những người ký tên dưới đây hoan nghênh ý thức xây dựng của những tiếng nói đó và thấy rằng để phản ảnh yêu cầu của đông đảo nhân dân, cần khởi xướng một Diễn đàn trao đổi và tập hợp các ý kiến nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa. Đó là mục đích hoạt động của Diễn đàn, hoàn toàn phù hợp với hiến pháp của nước ta và Công ước quốc tế. Diễn đàn này mang tên “Diễn đàn xã hội dân sự” và có trang thông tin điện tử là nơi bày tỏ ý kiến của các tổ chức, các nhóm, các cá nhân cùng theo đuổi mục đích nêu trên, với mong muốn xã hội dân sự ở nước ta phát triển đúng với yêu cầu của một nước dân chủ. Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền. Ý kiến khác nhau cần được tranh luận thẳng thắn để tìm chân lý; còn dựa vào quyền lực để cản trở việc công bố, không đối thoại mà chỉ đơn phương phê phán, quy kết, thậm chí dùng nhiều cách ngăn cấm và trấn áp thì không những vi hiến và trái với Công ước quốc tế mà còn không đúng với tư cách chính đáng của một nhà cầm quyền. Việc sửa đổi Hiến pháp đang còn ý kiến khác nhau về những vấn đề cơ bản của thể chế chính trị. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi dự định trình Quốc hội thông qua trong kỳ họp cuối năm tuy có một số điều chỉnh chi tiết nhưng về cơ bản vẫn duy trì thể chế toàn trị của giới cầm quyền nhân danh Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Thực tế ở nước ta cho thấy rõ: thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng; một “bộ phận không nhỏ” trong bộ máy lợi dụng quyền lực (cả quyền cai trị và quyền sử dụng, định đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản công) cấu kết với một số nhà kinh doanh làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất minh (cả trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân), hình thành các nhóm lợi ích bất chính, xâm phạm quyền lợi của nhân dân, dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo quá bất công ở nước ta. Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, có phần do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhưng phần quan trọng hơn, phổ biến hơn là do muốn bảo vệ và giành thêm lợi ích riêng bất chấp lợi ích chung của đất nước, của dân tộc. Đó là nguyên nhân gốc rễ khiến nước ta lâm vào khủng hoảng trên nhiều mặt: kinh tế suy giảm nặng và không ổn định, văn hóa giáo dục suy đồi, đạo đức băng hoại, môi sinh bị tàn phá, trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh thua kém nhiều nước trong khu vực, dân mất lòng tin đối với bộ máy cầm quyền; trong khi đó, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị thế lực bành trướng Trung Quốc gia tăng các hành động xâm phạm. Để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ, qua đó phát huy sức mạnh hòa giải và đoàn kết dân tộc, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. ĐCSVN, với vị trí là đảng đang cầm quyền, tự nhận vì nước vì dân, có trách nhiệm thúc đẩy quá trình chuyển đổi đó một cách chủ động, mở đầu bằng việc sửa đổi Hiến pháp. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống và cũng là phương án tối ưu cho sự chuyển đổi thể chế chính trị một cách ôn hòa ở nước ta. Nếu Hiến pháp sửa đổi vẫn duy trì thể chế toàn trị được thông qua và ban hành chính thức thì các thách thức mà đất nước và dân tộc đang đối mặt càng thêm nghiêm trọng dẫn tới hệ quả khôn lường, dân càng thất vọng và bất bình, uy tín của nước ta trong quan hệ quốc tế càng giảm sút. Đó thật sự là tai họa cho đất nước mà trách nhiệm thuộc về giới cầm quyền. Vì vậy, Diễn đàn xã hội dân sự yêu cầu Quốc hội dừng việc thông qua bản Hiến pháp sửa đổi trong đó thể chế chính trị hiện hành vẫn được duy trì về cơ bản, kéo dài thời gian thảo luận về Hiến pháp và thật lòng tổ chức nghiên cứu, tranh luận một cách thẳng thắn, nghiêm túc và công khai về những điều cơ bản của thể chế chính trị đang còn ý kiến khác nhau. Tuyên bố này được gửi tới các thành viên cơ quan lãnh đạo ĐCS và Nhà nước; đồng thời được công bố trên mạng xã hội để phổ biến rộng rãi, mong đồng bào trong và ngoài nước biểu thị sự đồng tình, hưởng ứng. Ngày 23 tháng 9 năm 2013 Những người khởi xướng Diễn đàn xã hội dân sự Ghi chú: - Ý kiến hưởng ứng Tuyên bố này xin gửi về địa chỉ e-mail: diendanxahoidansu@gmail.com - Cách thức tham gia Diễn đàn sẽ được thông báo sau. DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN TUYÊN BỐ THỰC THI QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ 23-9-2013 STT Họ và tên, chức danh (nghề nghiệp, nơi làm việc), thành phố/ nước 1. Nguyễn Đông Yên, GS TSKH, nhà toán học, Hà Nội 2. Phạm XuânYêm, GS Vật lý, Paris, Pháp 3. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu Lịch sử Văn hoá Huế, Huế 4. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế 5. Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội 6. JB Nguyễn Hữu Vinh, blogger, Hà Nội 7. Nguyễn Hữu Vinh, cử nhân luật, doanh nhân, Hà Nội 8. Vũ Quang Việt, nguyên chuyên viên cấp cao của Liên Hiệp Quốc, New York, Hoa Kỳ 9. Phan Thế Vấn, bác sĩ, TP HCM 10. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội 11. Lưu Trọng Văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa, TP HCM 12. Hà Dương Tường, nguyên giáo sư Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp 13. Trần Thị Tươi, cộng tác viên báo chí, TP. HCM 14. Hoàng Tụy, GS Toán học, nguyên Chủ tịch IDS, Hà Nội 15. Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội 16. Phạm Quang Tuấn, PGS, Đại học New South Wales, Sydney, Australia 17. Nguyễn Thế Trường, đại tá, cựu chiến binh, nguyên phóng viên báo Quân đội Nhân dân, nguyên Tổng biên tập báo Quân giải phóng Trung Trung Bộ, Hà Nội 18. Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội 19. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM 20. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, Phân viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam tại TP HCM, TP HCM 21. Nguyễn Thị Ngọc Trai, hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà Báo Việt Nam, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, Hà Nội 22. Nguyễn Thị Ngọc Toản, GS, bác sĩ, đại tá cựu chiến binh, TP HCM 23. Phạm Gia Toàn, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội 24. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội 25. Nguyễn Tường Thụy, blogger, cựu chiến binh, Hà Nội 26. Nguyễn Thị Thục, nhà báo, nguyên phóng viên đài Phát thanh Truyền hình Lâm Đồng, Đà Lạt 27. Phan Văn Thuận, Giám đốc Công ty TNHH Phú An Định, TP HCM 28. Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, TP HCM 29. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, TP HCM 30. Trần Văn Thọ, GS Kinh tế, Tokyo, Nhật Bản 31. Đào Tiến Thi, thạc sĩ Ngữ văn, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội 32. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo trước 1975, nguyên Tổng Thư ký Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Dân chủ Đà Lạt (1966), TP HCM 33. Giuse Maria Lê Quốc Thăng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM 34. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM 35. Nguyễn Văn Thạch, kỹ sư, TP Đà Nẵng 36. Trần Công Thạch, cán bộ hưu trí, TP HCM 37. Bùi Ngọc Tấn, nhà văn, Hải Phòng 38. Lê Văn Tâm, TS Hóa học, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Nhật Bản, TP HCM 39. Nguyễn Văn Tạc, giáo học hưu trí, Hà Nội 40. Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội 41. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM 42. Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng, Hà Nội 43. André Menras - Hồ Cương Quyết, nhà giáo, cựu tù trước 1975, Pháp 44. Trần Thị Quyên, nghề nghiệp tự do, TP HCM 45. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, Đà Lạt 46. Đỗ Trung Quân, nhà thơ, TP HCM 47. Nguyễn Đăng Quang, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội 48. Đặng Bích Phượng, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội 49. Phạm Xuân Phương, đại tá, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị, cựu chiến binh, Hà Nội 50. Đoàn Văn Phương, nguyên cán bộ Ban Giao bưu Trung ương Cục Miền Nam, TP HCM 51. Nguyễn Thị Hoài Phương, làm nghề tự do, Hà Nội 52. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên Phó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An 53. Nguyễn Hữu Phước, nhà báo, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, TP HCM 54. Hoàng Xuân Phú, GS TSKH Toán học, Hà Nội 55. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, giảng viên đại học, TP HCM 56. Hồ Ngọc Nhuận, nguyên Giám đốc chính trị, Chủ bút nhật báo Tin sáng Sài Gòn TP Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM, TP HCM 57. Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ công đoàn hưu trí, Đà Lạt 58. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội 59. Nguyễn Thái Nguyên, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội 60. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội 61. Phạm Đức Nguyên, PGS, giảng viên cao cấp Đại học Xây dựng Hà Nội, Hà Nội 62. Hạ Đình Nguyên, cử nhân giáo khoa Triết Đại học Sài Gòn, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM 63. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên IDS, Hội An 64. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM 65. Trần Tố Nga, nữ cựu tù chính trị, cán bộ hưu trí, TP HCM, Paris 66. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội 67. Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM 68. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM 69. Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội 70. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TP HCM, TP HCM 71. Trần Lương, nghệ sĩ thị giác, Hà Nội 72. Ngô Vĩnh Long, GS Sử học, University of Maine, Hoa Kỳ 73. Trần Văn Long, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM, nguyên Tổng Thư ký Uỷ ban cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam trước 1975, TP HCM 74. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội 75. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM 76. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới thuộc Tổng công ty Du lịch Sài Gòn, TP HCM 77. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên Viện phó Viện IDS, Hà Nội 78. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM 79. Nguyễn Khuê, cán bộ hưu trí, TP HCM 80. Lê Xuân Khoa, nguyên giáo sư thỉnh giảng, Viện Chính sách Đối ngoại, Đại học Johns Hopkins, Washington, DC, Hoa Kỳ 81. Nguyễn Vi Khải, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội 82. Lê Phú Khải, nhà báo, nguyên phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam, TPHCM 83. Phạm Khiêm Ích, PGS, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Hà Nội 84. Hà Thúc Huy, PGS TS, giảng viên đại học, TP HCM 85. Nguyễn Thị Hoài Hương, làm nghề tự do, Hà Nội 86. Hoàng Hưng, làm thơ - dịch sách - làm báo, TP HCM 87. Nguyễn Đăng Hưng, TSKH, GS Đại học Liège, Bỉ, đã hồi hương, TP HCM 88. Nguyễn Thế Hùng, GS Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng 89. Nguyễn Mạnh Hùng (Nam Dao), nguyên GS Kinh tế, Đại học Laval, Quebec, Canada 90. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, Nghệ An 91. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, TPHCM 92. Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP HCM, TP HCM 93. Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội 94. Phạm Duy Hiển, kỹ sư, Vũng Tàu 95. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội 96. Đặng Thị Hảo, TS, nguyên Phó Ban Văn học Cổ cận đại, Viện Văn học, Hà Nội 97. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội 98. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên IDS, Hà Nội 99. Trần Hải Hạc, TS, nguyên PGS Đại học Paris 13, Paris, Pháp 100. Hoàng Thị Hà, giáo viên về hưu, Hà Nội 101. Ngô Thanh Hà, cán bộ hưu trí, TP HCM 102. Lê Công Giàu, nguyên Tổng thư ký Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1966-1967), nguyên Phó Bí thư Thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM (1975-1980), nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP HCM (ITPC), TP HCM 103. Nguyễn Ngọc Giao, nguyên Phó Tổng thư ký Hội Người Việt Nam tại Pháp, Chủ biên tạp chí Diễn Đàn, Paris 104. Trần Tiến Đức, nhà báo, nguyên vụ trưởng Vụ Giáo dục - Truyền thông, Uỷ ban Quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình, Hà Nội 105. Huy Đức, nhà báo, TP HCM 106. Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí, TP HCM 107. Phạm Văn Đỉnh, TSKH, Toulouse, Pháp 108. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM 109. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP HCM khóa 4, khóa 5, TP HCM 110. Nguyễn Duy, nhà thơ, TP HCM 111. Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo, TP Huế 112. Trần Hữu Dũng, GS, nhà giáo nghỉ hưu, Dayton, Hoa Kỳ 113. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM 114. Phạm Chí Dũng, nhà báo, TP HCM 115. Nguyễn Anh Dũng, nhà giáo, cựu chiến binh, Hà Nội 116. Lê Đăng Doanh, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên thành viên IDS, Hà Nội 117. Nguyễn Xuân Diện, TS, Viện Hán Nôm, Hà Nội 118. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, TP HCM 119. Tống Văn Công, nhà báo, nguyên Tổng biên tập báo Lao Động, TP HCM 120. Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội 121. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM 122. Ngô Bảo Châu, GS Toán học, Hà Nội, Chicago 123. Bùi Chát, Nhà Xuất bản Giấy vụn, TP HCM 124. Thái Văn Cầu, chuyên gia về không gian, Hoa Kỳ 125. Nguyễn Trọng Bình, nguyên Hiệu trưởng Đại học tại chức Hải Phòng, TP HCM 126. Nguyễn Nguyên Bình, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội 127. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP HCM, TP HCM 128. Đặng Thị Nguyệt Ánh, TS, Hà Nội 129. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị chuồng cọp Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành ủy TP HCM, TP HCM 130. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội [1] Điều 19 của Công ước này còn có khoản kế tiếp như sau: 3-Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a-Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác. b-Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý. 2 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền quy định tại điều 19: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới” và điều 20: “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn hòa. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể”. Danh sách ký tên Đợt 2 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9 (tổng cộng đợt 1 và 2: 258 người) 131. Doãn Kiều Anh, kỹ sư, TP HCM 132. Lã Việt Dũng, kỹ sư tin học, Hà Nội 133. Nguyễn Việt Hà, kỹ sư, TP HCM 134. Chientrantien, Schanzen str 25, 90478 Nürnberg, CHLB Đức 135. Lê Quốc Chơn, nghiên cứu sinh TS Hóa vật liệu, Pháp 136. Nguyễn Thị Hải Yến, TS, CHLB Đức 137. Lê Nguyên Long, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 138. Nguyên Thi Thanh Van, phóng viên, Paris, Pháp 139. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Genève, Thuỵ Sĩ 140. Nguyễn Quyền, công nhân, München, CHLB Đức 141. Gerardo Nguyễn Nam Việt, linh mục Giáo phận Vinh, Hoa Kỳ 142. Trần Kim Thập, giáo chức, Perth, Australia 143. Nguyễn Công Hệ, thuyền trưởng viễn dương, TP HCM 144. Đặng Lợi Minh, giáo viên hưu trí, Hải Phòng 145. Trịnh Trọng Thủy, đảng viên đã bỏ sinh hoạt 3 năm, Hà Nội 146. Nguyễn Bá Dũng, kỹ sư, Hà Nội 147. Nguyễn Văn Dũng, Phó Chủ tịch Hội Người Hải Phòng tại CHLB Đức 148. Joseph Le, CPA, Sydney, Australia 149. Tô Oanh, giáo viên THPT, đã nghỉ hưu, TP Bắc Giang, Bắc Giang 150. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang, Khánh Hòa 151. Trương Long Điền, công chức hưu trí, Long Xuyên, An Giang 152. Ngô Khiết, công dân tự do, TP HCM 153. Nguyễn Hòa, Cao-học hành-chánh Sài-Gòn, đã nghỉ hưu, Hoa Kỳ 154. Le Mai Linh, thi sĩ/nhà văn, Hoa Kỳ 155. Phạm Đỗ Chí, nguyên chuyên viên cấp cao Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Washington DC, Hoa Kỳ 156. Hà Văn Thùy, nhà văn, thành phố Hồ Chí Minh 157. Hà Văn Chiến, cựu chiến binh, Thái Bình 158. Vu Huy Do, công nhân, Seattle, Hoa Kỳ 159. Nguyễn Thái Hùng, kỹ sư xây dựng, Vinh 160. Nguyễn Trung Thành, kỹ sư giao thông vận tải, Phú Thọ 161. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Tư pháp, Hà Nội 162. Chu Sơn, làm thơ viết văn tự do, TP HCM 163. Nguyễn Thị Kim Thoa, bác sĩ, TP HCM 164. Hồ Quang Huy, kỹ sư, Nha Trang 165. Dao Minh Chau, Hà Nội 166. Nguyễn Thượng Long, viết báo tự do, Hà Nội 167. Lê Anh Hùng, blogger, Hà Nội 168. Bùi Ngọc Mai, nội trợ, TP HCM 169. Lê Văn Xuân, Đắk Lắk 170. Nguyễn Văn Pháp, kỹ sư công nghệ sinh học, Thanh Hoá 171. Lê Văn Sinh, cựu giảng viên Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Hà Nội 172. Nguyễn Văn Trì, TP Biên Hòa, Đồng Nai 173. Nguyễn Chương, nhà báo tự do, TP HCM 174. Hoàng Bá Long, kinh doanh, Hải Phòng 175. Nguyễn Hồng Khoái, sĩ quan quân đội về hưu, Hà Nội 176. Nguyen Phuc Nguyen, kĩ sư, đã nghỉ hưu, Hà Nội 177. Đinh Hoàng Giang, doanh nhân, Hải Phòng 178. Bùi Phan Thiên Giang, chuyên viên mạng máy tính, TP HCM 179. Nguyễn Anh Tuấn, nhà làm phim độc lập, Hà Nội 180. Hà Huy Sơn, luật sư, Công ty Luật TNHH Hà Sơn, Hà Nội 181. Nguyễn Ngọc Cúc, kỹ sư, Thủ Dầu Một, Bình Dương 182. Lê Đoàn Thể, Hà Nội 183. Ngô Thanh Tú, blogger, Cam Ranh, Khánh Hòa 184. Nguyễn Hùng Sơn, họa sĩ, Hà Đông, Hà Nội 185. Hoang Nguyen Thuy Khe, nhân viên văn phòng, TP HCM 186. Phạm Ngọc Cảnh Nam, nhà văn, Đà Nẵng 187. Lương Đình Dzụ, TS, chuyên gia tại Hoa Kỳ, cựu du học sinh tại Nhật Bản, Hoa Kỳ 188. Nguyễn Quang Vinh, cán bộ Bộ Quốc phòng, Hà Nội 189. Trần Công Khánh, hưu trí, Hải Phòng 190. Lê Công Định, luật sư, cựu tù nhân lương tâm, TP HCM 191. Đỗ Toàn Quyền, kỹ sư, TP HCM 192. Trương Công Minh, kỹ sư, TP HCM 193. Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, TP HCM 194. Trần Việt Thắng, thạc sĩ, Hà Nội 195. Nguyễn Khánh Dương, kỹ sư, Bình Thuận 196. Nguyễn Kim Thái, cử nhân, doanh nhân, Bà Rịa-Vũng Tàu 197. Đào Nguyên Ngọc, cựu chiến binh, CHLB Đức 198. Ngô Thúy, họa sĩ tự do, Hà Nội 199. Trần Rạng, giáo viên, TP HCM 200. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội 201. Thân Hải Thanh, nguyên Tổng Giám đốc Benthanhtourist, TP HCM 202. Trần Quốc Lộc, kỹ sư đã nghỉ hưu TP HCM 203. Nguyễn Kim Bình, TS Y Khoa, đã nghỉ hưu, Brisbane, Australia 204. Chu Mạnh Chi, nguyên giảng viên đại học, Đà Lạt 205. Đặng Lê Hoàng, chuyên viên công nghệ thông tin, TP HCM 206. Nguyễn Tấn Lạc, California, Hoa Kỳ, phụ trách websites: diendancuachungta.com và tudotongiao.wordpress.com 207. Nguyễn Quốc Thản, kỹ sư, Tokyo, Nhật Bản 208. Trần Minh Khôi, kỹ sư điện toán, Berlin, CHLB Đức 209. Đỗ Thành Nhân, MBA, quản lý doanh nghiệp, TP Quảng Ngãi 210. Nguyễn Vũ, kỹ sư, hành nghề tự do, TP HCM 211. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, TP HCM 212. Đặng Minh Điệp, thạc sĩ, giảng viên đại học, TP HCM 213. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, TP HCM 214. Nguyễn Văn Viên, nhân viên IT, Hà Nội 215. Vũ Văn Vân, kỹ sư, Hà Nội 216. Nguyễn Văn Nhượng, kỹ sư, đang nghỉ hưu, Lausanne, Thụy Sĩ 217. Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia công nghệ thông tin, Pháp 218. Phạm Vương Ánh, kỹ sư kinh tế, cựu sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, Vinh 219. Vũ Quốc Ngữ, thạc sĩ, Hà Nội 220. Trần Anh Đức, sinh viên Luật, Hà Nội 221. Nguyễn Trung Hiếu, cử nhân Xã hội học, du học sinh tại Tokyo, Nhật Bản 222. Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM 223. Việt Ông, kinh doanh, TP HCM 224. Hoàng Dương Tuấn, GS Đại học Công nghệ Sydney, Australia 225. Nguyễn Xuân Bách, kỹ sư, CHLB Đức 226. Tạ Thị Vân, kinh doanh, CHLB Đức 227. Nguyễn Hữu Chuyên, giáo viên, Thái Bình 228. Trần Ngọc Tuấn, nhà báo, CH Czech 229. Tran Ke Dung, đảng viên Đảng Lao động Australia, Australia 230. Đoàn Lâm Tất Linh, Kiên Giang 231. Nguyễn Đức Việt, chuyên viên công nghệ thông tin, Sydney, Australia 232. Khúc Thị Tình (Blog thơ Tiếng Sóng Biển), doanh nhân, CHLB Đức 233. Vũ Thị Nhuận, TS/nội trợ, TP Cần Thơ 234. Trần Ngọc Báu, hưu trí, Fribourg, Thuỵ Sĩ 235. Phan Văn Tráng, kỹ sư xây dựng, TP HCM 236. Cao Thiện Phước, kỹ sư, Pháp 237. Trần Tuấn Dũng, hưu trí, Quebec, Canada 238. Đào Duy Chữ, TS Khoa học tự nhiên, TP HCM 239. Nguyễn Duy, TP HCM 240. Lê Minh Hằng, TS, Hà Nội 241. Lê Hữu Minh Tuấn, cử nhân Sử, Quảng Nam 242. Nguyễn Trường Toản, Thanh tra Công trường Xây dựng, Houston, Hoa Kỳ 243. Phạm Hữu Uyển, IT, CH Czech 244. Trịnh Hồng Kỳ, cựu chiến binh, An Giang 245. Nguyễn Quốc Vũ, IT, CH Czech 246. Dang Ngoc Quang, nghề tự do, Hà Nội 247. Dương Tùng, Bình Dương 248. Nguyễn Anh Phú, biên tập viên, Hà Nội 249. Nguyễn Văn Lịch, làm nghề tự do, TP HCM 250. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TP HCM 251. Nguyễn Văn Duyên, kỹ sư, Hà Nam 252. Phạm Đưc Quý, chuyên viên nghỉ hưu, Hà Nội 253. Le Hung Dung, kinh doanh, CH Czech 254. Vũ Trung Đồng, kỹ sư, TP HCM 255. Nguyễn Công Huân, biên tập viên trang Dân Luận, PGS Đại học Aaborg, Đan Mạch 256. Vũ Mạnh Hùng, Warszawa, Ba Lan 257. Hồ Trọng Đễ, kỹ sư cơ khí, TP HCM 258. Nguyen Hong Duc, kỹ sư, Hà Nội Danh sách ký tên Đợt 3 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9 (tổng cộng đợt 1, 2 và 3: 375 người) (đã xoá 7 người trùng tên) 259. Trần Đức Hào, cựu tù nhân, cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, TP Đà Nẵng 260. Trịnh Xuân Thuỷ, kinh doanh, TP HCM 261. Đàm Quốc Khánh, kỹ sư Hàng hải, TP HCM 262. Chu Trọng Thu, cựu giảng viên Đại học Sư phạm, cựu chiến binh, TP HCM 263. Vũ Ngọc Thăng, dịch giả, Canada 264. Nguyễn Minh Khanh, kỹ sư Tin học, Paris, Pháp 265. Ngô Văn Hòa, thợ may, Hòa Vang, Đà Nẵng 266. Nguyễn Văn Phúc, kỹ sư, Bình Định 267. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội 268. Lê Mạnh Quang, thạc sĩ, nguyên là giảng viên Đại học Tây Bắc 269. Hoàng Quý Thân, PGS TS, Hà Nội 270. Bùi Trần Đăng Khoa, luật sư, TP HCM 271. Nguyễn Khánh Trung, TS, Pháp 272. Phan Bích Hoàng Thu, kỹ sư, TP HCM 273. Nguyễn Hồng Kiên, TS Sử học, Viện Khảo cổ học, Hà Nội 274. Đinh Huyền Hương, nhà giáo, đã nghỉ hưu, TP HCM 275. Nguyễn Ngọc Thạch, hưu trí, TP HCM 276. Bùi Quang Thắng, thạc sĩ quản trị kinh doanh, Hà Nội 277. Huỳnh Thục Vy, blogger bất đồng chính kiến, Quảng Nam 278. Vũ Sỹ Hoàng, phóng viên tự do, blogger Hành Nhân 279. Lưu Văn Minh, sinh viên, Hà Nội 280. Nguyễn Ngọc Sẵng, TS giáo dục, tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ 281. Mai Nhật Đăng, học sinh, Tokyo, Nhật Bản 282. Nguyễn Quốc Quân, TS Toán, cựu tù nhân lương tâm, California, Hoa Kỳ 283. Đào Thanh Thủy, cán bộ hưu trí, Hà Nội 284. Đặng Đình Cung, kỹ sư tư vấn, Pháp 285. Phạm P Long, kỹ sư, Hoa Kỳ 286. Tho Lê, nghỉ hưu, Victoria, Australia 287. Hoàng Quốc Hùng, doanh nhân, Praha, CH Czech 288. Quang Tran, IT, Hoa Kỳ 289. Nguyen Quang Tuyen, nghệ sĩ thị giác, San Francisco, California, Hoa Kỳ 290. Bùi Văn Phú, GS Đại học Cộng đồng California, nhà báo tự do 291. Trương Lợi, kỹ sư, TP HCM 292. Lý Đăng Thạnh, người chép sử, TP HCM 293. Lê An Vi, cử nhân Luật, Hà Nội 294. Lê Dũng, blogger, Hà Nội 295. Trần Thị Thanh Tâm, nội trợ, Warzsawa, Ba Lan 296. Trần Xuân Sơn, Hà Nội 297. Nguyễn Khánh Hưng, thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA), Sacramento, California 298. Châu Kỳ, Chemical Engineer, Hoa Kỳ 299. Hồ Văn Tích, kỹ sư, TP HCM 300. Dinh Khac Luong, kỹ sư cơ khí, Hà Nội 301. Nguyễn Phúc Thọ, kỹ sư Tin học, Colombes, Pháp 302. Nguyễn Hồng Phi, họa sĩ, Bangkok, Thái Lan 303. Lê Văn Sinh, MBA, Vương Quốc Anh 304. Đỗ Minh Tuấn, nhà thơ, đạo diễn, Hà Nội 305. Phạm Thanh Lâm, kỹ sư điện tử, Copenhagen, Đan Mạch 306. Phạm Văn Điệp, Chủ nhiệm Câu lạc bộ những người Việt mong muốn Việt Nam hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ, Liên Bang Nga 307. Âu Dương Thệ, TS, Hiệp hội Dân chủ và Phát triển Việt Nam, Dortmund, Đức 308. Ngô Trừng Bình, An Giang 309. Nhâm Thiếu Bảo, kỹ sư cơ khí, Hà Nội 310. Vũ Tiến Nga, kỹ sư cơ khí, TP HCM 311. Nguyễn Trung Luân, Trưởng phòng, Sở Công Thương TP HCM 312. Ngọc Nam Phương, Cao Bằng 313. Châu Xuân Nguyễn, blogger, kỹ sư cơ khí, Melbourne, Australia 314. Phan Như Hiển, Núi Thành, Quảng Nam 315. Đỗ Đăng Liêu, Australia 316. Châu Kỳ, Engineer, Los Angeles, Hoa Kỳ 317. Huỳnh Bảo Đức, TP HCM 318. Nguyễn Văn Hưng, nghề tự do, cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, California, Hoa Kỳ 319. Cao Tan-Lôc, Paris, Pháp 320. Pham Van Thanh, Hoa Kỳ 321. Nguyễn Thành Chiến, nghiên cứu sinh, Zweibrueken, CHLB Đức 322. Huỳnh Công Thuận, blogger, TP HCM 323. Đỗ Hữu Tuyến, học sinh, Vũ Thư, Thái Bình 324. Nguyễn Quốc Hưng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, hiện làm việc tại Roma, Italia 325. Mike Nguyễn, Engineering Manager, Michigan, Hoa Kỳ 326. Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, dịch thuật, hành nghề tự do, Berlin, CHLB Đức 327. Trần Công Thắng, bác sĩ, Kristiansand, Na Uy 328. Đỗ Như Phương, kỹ sư, nguyên đảng viên Đảng Cộng sản, Hungary 329. Quan Vinh, chuyên viên tin học, Rome, Italia 330. Vũ Tuấn, TS điện tử, CHLB Đức 331. Bùi Tín, nhà báo tự do, Pháp 332. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ y khoa, Paris, Pháp 333. Trần Trung Sơn, TS, giảng viên trường Sĩ quan Không quân 334. Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư điện tử, CHLB Đức 335. Nguyễn Văn Hóa, Insurance Broker (California State), San Jose, California, Hoa Kỳ 336. Tran Mai Sinh, CHLB Đức 337. Le Thanh Hong, CPA, Melbourne, Australia 338. Lê Đặng Thụy, Na Uy 339. Hoàng Lan, nguyên giảng viên Đại học Sư phạm TP HCM, TP HCM 340. Lê Cường, Graphic Designer, Hoa Kỳ 341. Đại Nghĩa, cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, Hoa Kỳ 342. Nguyễn Văn Cung, nhạc sĩ, thượng tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội 343. Trần Đức Thạch, nhà thơ, Nghệ An 344. Nguyễn Lân Thắng, kỹ sư xây dựng, Hà Nội 345. Phan Văn Song, nguyên Quyền Hiệu trưởng trường THPT Chuyên Bến Tre, Australia 346. Hoàng Minh Giám, linh mục, Nam Định 347. Vũ Minh Trí, kĩ sư cơ khí, Cầu Giấy, Hà Nội 348. Tung Nguyen, Oklahoma City, Oklahoma, Hoa Kỳ 349. Ngô Đức Đoàn, kế toán, TP Bà Rịa, Bà Rịa-Vũng Tàu 350. Trần Đức Cung, TS, hưu trí, TP HCM 351. Nghiệp Nguyễn Duy, doanh nhân, Thừa Thiên Huế 352. Đinh Tấn Lực, blogger, BKK/VTE/PNH/KUL/MNL - SouthEast Asia 353. Le Xuan Quang, cựu chiến binh, TP HCM 354. Nguyễn Văn Sang, nông dân, Bắc Giang 355. Ngô Đức Thọ, PGS TS Ngữ văn, nghỉ hưu, Hà Nội 356. Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, TP HCM 357. Trần Thọ Hưng, kỹ sư cầu đường, TP HCM 358. Nguyễn Minh Mẫn, kỹ sư Hoá học, Misissauga, Ontario, Canada 359. Vũ Thị Phương Anh, PhD, giảng viên, nghiên cứu giáo dục, TP HCM 360. Lê Văn, TS Vật lý, TP HCM 361. Nguyễn Anh Tuấn, GS TS, Hà Nội 362. Nguyễn Hữu Tế, TP HCM 363. Bùi Quang Lộc, giáo viên, TP HCM 364. Dương Sanh, cựu giáo viên, Khánh Hòa 365. Nguyễn Ánh Tuyết, cán bộ viễn thông, Hà Nội 366. Phi Vũ, công nhân, blogger, California, Hoa Kỳ 367. Nguyễn Phương Chi, nguyên biên tập viên chính Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Viện Văn học (đã nghỉ hưu), Hà Nội 368. Nhật Tuấn, nhà văn, TP HCM 369. Vũ Hải Long, TSKH, cán bộ Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, đã nghỉ hưu, TP HCM 370. Trần Quốc Hùng, cựu giáo viên, TP HCM 371. Nguyễn Steve, ngành IT, Sydney, Australia 372. Dao Kim Son, kinh doanh tự do, TP HCM 373. Phan Lê Tuấn, TP HCM 374. Phạm Kỳ Thụy, kỹ sư xây dựng, Cầu Giấy, Hà Nội 375. Lê Ngọc Xuân, TP HCM Danh sách ký tên Đợt 4 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9 (tổng cộng các đợt 1- 4: 497 người) 376. Nguyễn Trần Dũng, công ty cổ phần, Hà Nội 377. Đoàn Thanh Liêm, Costa Mesa, California, Hoa Kỳ 378. Đào Thu Huệ, giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 379. Lê Hà, công nhân, Nuremberg, CHLB Đức 380. Tony Bùi, Pháp 381. Trương Văn Lợi, nghị viên Hội đồng thành phố Dandenong, tiểu bang Victoria, Australia 382. Nguyễn Ngọc Sơn, kinh doanh, cựu chiến binh, TP HCM 383. Nguyễn An Liên, công nhân, TP Đà Nẵng 384. Lê Tân, blogger, TP HCM 385. Ngô Thị Hồng Lâm, nhân viên nghiên cứu lịch sử Đảng, đã nghỉ hưu, TP Vũng Tàu 386. Đinh Thái Trung, Giám đốc Trung tâm Khai Trí (trường tư thục Việt- Mỹ), Houston,Texas, Hoa Kỳ 387. Trần Đình Thắng, cựu giảng viên, TP HCM 388. Nguyên Ân, nhà báo / nhà thơ, California, Hoa Kỳ 389. Nguyễn Đức Giang, cựu chiến binh, Hà Nội 390. Nguyễn Tường Tâm, luật gia, San Jose, Hoa Kỳ 391. Trần Tư Bình, giáo chức, Sydney, Australia 392. Nguyễn Văn Cường, kỹ sư xây dựng cầu đường, Hải Dương 393. Lê Văn Tuynh, blogger, Phan Thiết 394. Phạm Tư Thanh Thiện, nguyên Phó Trưởng ban Việt ngữ Đài RFI, Pháp 395. Dương Văn Nam, công nhân viễn thông, Nam Định 396. Nguyễn Thanh Bình, Sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam, Hà Nội 397. Dương Hồng Lam, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn miền Nam, hưu trí, TP HCM 398. Rick Phan, kỹ sư, Canada 399. Nguyễn Đức Phổ, nông dân, Lâm Đồng 400. Nguyễn Thanh Xuân, công nghệ thông tin, TP HCM 401. Nguyễn Minh Nhựt, programer & designer, TP HCM 402. Trịnh Lê Thanh, kỹ sư vô tuyến điện, quận Lê Chân, Hải Phòng 403. Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, cựu giảng viên đại học, An Giang 404. Lê Hồng Quang, kinh doanh, TP HCM 405. Lê Văn Oanh, kỹ sư, Hà Nội 406. Phạm Thị Lâm, cán bộ hưu trí, Hà Nội 407. Ngô Điều, sĩ quan nghỉ hưu, đảng viên lớp 6-1-1960, Hà Nội 408. Lê Anh Dũng, lao động tự do, Hải Phòng 409. Lương Văn Liệt, nguyên là cán bộ lực lượng Thanh niên Xung phong, cán bộ Chi cục Thuế TP HCM 410. Nguyễn Thành Nhân, kỹ sư, TP HCM 411. Nguyễn Đăng Lập, kỹ sư kinh tế, TP Bà Rịa, Bà Rịa-Vũng Tàu 412. Lương Đỗ Long, công nhân, Mỹ Đình, Hà Nội 413. Trần Phúc Thông, cựu chiến binh Việt-Campuchia-Lào, Hà Nội 414. Huỳnh Trung Hiếu, xã Phước Hưng, huyện Trà Cú, Trà Vinh 415. Bùi Kim Nhung, hưu trí, TP HCM 416. Phan văn Phong, kinh doanh tự do, Hoàn Kiếm, Hà Nội 417. Phạm Xuân Hưng, trình dược viên, Hà Nội 418. Nguyễn Minh Khang, nhân viên vi tính, TP HCM 419. Nguyễn Ngọc Hoài Ân, kỹ sư tin học, TP HCM 420. Lê Xuân Diệu, cử nhân Kinh tế, kinh doanh tự do, Đắk Lắk 421. Lưu Quý Định, kỹ sư, Munich, CHLB Đức 422. Trương Vĩnh Phúc, cử nhân, cựu chiến binh, Hà Nội 423. Bùi Thanh Thám, kế toán, TP HCM 424. Xà Quế Châu, đầu bếp, TP HCM 425. Trần Quang Thành, nhà báo, cựu phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Slovakia 426. Phạm Văn Giang, hướng dẫn viên du lịch, Hà Nội 427. Trần Văn Khoản, nguyên cựu chiến binh, nguyên đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (vào Đảng năm 1974, từ bỏ năm 1989), nghề tự do, TP Vũng Tàu 428. Trần Văn Terry, công nhân, Irvine CA, Hoa Kỳ 429. Hoang Dinh, System Engineer, Odense, Đan Mạch 430. Nguyen Van Trien, San Diego, California, Hoa Kỳ 431. Nguyễn Hoành Hùng, kỹ sư, Vũng Tàu 432. Hà Nguyễn, Đà Lạt, Lâm Đồng 433. Trọng Nghĩa, kỹ sư máy tàu biển, Hải Phòng 434. Nguyễn Quốc Lân, giáo viên, nghỉ hưu 435. Nguyễn Hữu Trường, công dân tự do, Bình Dương 436. Nguyễn Anh Tuấn, kiến trúc sư, Hà Nội 437. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp 438. Nguyễn Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp 439. Võ Quang Luân, hưu trí, Hà Nội 440. Hoàng Lê Nam, kỹ sư Tin học, Hà Nội 441. Bui Quang Trung, kỹ sư xây dựng, Pháp 442. Nguyễn Kiến Phước, nhà báo, TP HCM 443. Hoàng Mười, cán bộ nghỉ hưu, Cầu Giấy, Hà Nội 444. Trần Văn Vinh, cử nhân luật, hướng dẫn du lịch, Hà Nội 445. Dao Quang Huy, doanh nhân, Praha, CH Czech 446. Khoa Nguyễn, COS, Virginia, Hoa Kỳ 447. Lanney Trần, Phụ tá Pháp lý/Giáo dục, California, Hoa Kỳ 448. Mai Văn Tuất, tức Facebooker Văn Ngọc Trà, kỹ sư, TP HCM 449. Trần Văn Tuyến, sinh viên, TP HCM 450. Nguyễn Sĩ Đáng, kiến trúc sư, Australia 451. Nguyễn Thị Tuyết Thanh, nhân viên phụ trách nhà cửa, London, Anh Quốc 452. Vũ Văn Thịnh, bác sĩ, đã nghỉ hưu, Thái Nguyên 453. Đặng Vũ Giang, TS, cán bộ nghiên cứu, Hà Nội 454. Hồng Sa Ngạn, giáo viên, Lai Châu 455. Nguyễn Trung Tôn, mục sư, Quảng Xương, Thanh Hóa 456. Nguyen Anh Tam, kỹ sư công trình, giám đốc công trình chuyên ngành về tự động hoá, Canada 457. Dương Văn Vinh, nguyên sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, TP HCM 458. Võ Thanh Hà, giáo viên, Hà Nội 459. Đặng Nguyễn Hoài Mơ, TP HCM 460. Nguyễn Phương Quân, Xây dựng - Nội thất, Hà Nội 461. Lương Đình Cường, Tổng Biên tập Báo điện tử NguoiViet 462. Peter Nguyen Duc Hung, nhân viên bưu điện, Oslo, Na Uy 463. Nguyễn Zion, hưu trí, Philadelphia, Hoa Kỳ 464. Nguyễn Văn Nghiêm, lao động tự do, TP Hòa Bình, Hòa Bình 465. Phạm Thông, nghề tự do, Hà Nội 466. Nguyễn Kim Huân, kỹ sư xây dựng, Hà Nội 467. Nguyễn Duy Hải, giáo viên, Long An 468. Phan Đức Vinh, vi tính, Sydney, Australia 469. Nguyễn Mê Linh, TS, TP HCM 470. Lê Khánh Hùng, TS công nghệ thông tin, Hà Nội 471. Đặng Trường Lưu, hoạ sĩ, nhà phê bình Mỹ thuật, Hà Nội 472. Trần Quốc Túy, kỹ sư Hóa, hưu trí, Hà Nội 473. Bùi Chí Tâm, nghề tự do, Quảng Ngãi 474. Võ Văn Rân, hưu trí, Hoa Kỳ 475. Thùy Linh, nhà văn, Hà Nội 476. Đông Xuyến, Dr. Tâm lý Trị liệu, California, Hoa Kỳ 477. Hà Văn Thịnh, nhà giáo, Huế 478. Phạm Trung Kiên, thạc sĩ sử học, dạy học, Hà Nội 479. Trần Nhật Phương, công nhân, Nghệ An 480. Lê Thanh Quang, nguyên là cơ sở cách mạng Biệt Động Thành Đà Nẵng 1973 – 1975, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia 1977 – 1981, làm nông, Đà Nẵng 481. Nguyễn Trọng Quyết, luật sư, Hải Dương 482. Bùi Như Giang, sinh viên y khoa, TP HCM 483. Ngô Thanh Nhã, Canada 484. Nguyễn Thành Trung, công nhân, Bình Dương 485. Nguyễn Mạnh Hùng, nhà giáo, cựu chiến binh, TP HCM 486. Ngô Văn Hiếu, nguyên Tổng Thư ký Ủy ban Đòi Nhân quyền cho Việt Nam, nguyên Tổng Thư ký Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, Hoa Kỳ 487. Tô Hoà, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM 488. Nguyễn Công Minh, linh mục, TP HCM 489. Phero Nguyễn Văn Khải, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, Hà Nội 490. Huỳnh Minh Tú, kinh doanh tự do, blogger, Berlin, CHLB Đức 491. Vũ Ngọc Tuyến, sĩ quan quân đội nghỉ hưu, Hà Nội 492. Nguyễn Quang Huy đã nghỉ hưu, Bắc Ninh 493. Nguyễn Huy Hoàng, kinh doanh, Hà Nội 494. Andy Vu, công nhân, Sydney, Australia 495. Nguyễn Việt Bách (bút danh Phan Thành Đạt), hướng dẫn viên du lịch, luật gia, Pháp 496. Phạm Minh Hoàng, nguyên giảng viên Đại học Bách Khoa TP HCM 497. Ngô Văn Phương, nguyên Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP HCM, TP HCM Danh sách ký tên Đợt 5 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9 (tổng cộng các đợt 1- 5: 623 người) 498. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, Giám đốc Chi nhánh Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, TP HCM 499. Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ - nhạc sĩ - nhà báo, Hà Nội 500. Huy Trần, Đại học Viên, Áo 501. Hoàng Xuân Sơn, luật sư, TP HCM 502. Võ Đăng Khoa, thạc sĩ công nghệ thông tin, Houston, Texas, Hoa Kỳ 503. Nguyễn Mạnh Cường, kinh doanh, CH Czech 504. Đạt Nguyễn, PhD, Virginia Commonwealth University, Hoa Kỳ 505. Phạm Duy Lương (Trí Dân), Aš, CH Czech 506. Nguyễn Nguyên Khôi, Perth, Australia 507. Vũ Đức Khanh, luật sư, Ottawa, Canada 508. Nguyễn Tiến Dũng, cử nhân công nghệ thông tin, trung tá Bộ đội Biên phòng, đã nghỉ hưu, Thanh Hoá 509. Trần Văn Tiến, kinh doanh, CH Czech 510. Nguyễn Ánh Tuyết, cử nhân kinh tế, London, Vương quốc Anh 511. Nguyễn Quế Hương, kiến trúc sư, HCM 512. Trần Văn Thiện, kỹ sư, Hà Nội 513. Nguyễn Hồng Quân, kỹ sư kết cấu, Hoa Kỳ 514. Toàn Khanh Hoàng, kỹ sư tin học, Frankfurt, CHLB Đức 515. Nguyen Dinh Thang, TS, kỹ sư cơ khí, Tổng Giám đốc, Hoa Kỳ 516. Ngô Trí, đã về hưu, Port Coquitlam, Canada 517. Ngo Bao Vinh, kỹ sư xây dựng, Australia 518. Hoàng Đức Vương, kỹ sư, TP HCM 519. Lê Quang, thạc sĩ giáo dục, Hà Nội 520. Đặng Lâm, nhân viên xã hội, Vancouver, Canada 521. Nguyễn Ái Chi, nguyên cán bộ phòng Tuyên huấn trường Đại học Thương Mại, TP HCM 522. Hoang Tam Tam, kỹ sư, nghề tự do, Australia 523. Lê Hồng Phong, cử nhân kinh tế, Hà Nội 524. Huỳnh Thị Thu, kế toán, FDI, Trảng Bom, Đồng Nai 525. Đỗ Thái Bình, kỹ sư đóng tàu, TP HCM 526. Đức Long, TS, bác sĩ, TP HCM 527. Đoàn Văn Cánh, nguyên giảng viên cao cấp trường đại học, Hà Nội 528. Đỗ Đình Oai, giáo viên Toán, Quảng Ngãi 529. Nguyễn Thanh Cường, kinh doanh, TP HCM 530. Pham Nguyen, kỹ sư tin học, Washington DC, Hoa Kỳ 531. Ta Thanh, công nhân, Hoa Kỳ 532. Phan Tấn Hải, nhà văn, Hoa Kỳ 533. Phung Thi Ly, cử nhân, TP HCM 534. Lê Bách Phong, kinh doanh, Bà Rịa-Vũng Tàu 535. Bùi Kiến Quốc, kiến trúc sư, thạc sĩ khoa học về Đô thị học, doanh nhân, Hà Nội 536. Dương N Ánh, kỹ sư dầu khí, chuyên viên dầu cát & khí đá, Houston, Hoa Kỳ 537. Đinh Quang Minh, cử nhân kinh tế, Hà Nội 538. Hàn Quang Vinh, kỹ sư tin học, Hà Nội 539. Trần Ngọc Thạch, cán bộ lâm nghiệp, Bình Định 540. Vũ Duy Thắng, kinh doanh tự do, Đông Anh, Hà Nội 541. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư điện, Khánh Hòa 542. Nguyễn Quốc Minh, nhà thơ, Hà Nội 543. Ngô Đình Thục, nghỉ hưu, Hoa Kỳ 544. Nguyễn Đức Tùng, M.D., Vancouver, Canada 545. Bùi Việt Hà, Công ty Công nghệ Tin học Nhà trường, Hà Nội 546. Vũ Trí Đức, nghề tự do, Hà Nội 547. Vũ Bất Khuất, người làm thơ, TP Rạch Giá 548. Mai Sơn, viết văn, dịch thuật, TP HCM 549. Lê T Hong Hạnh, hưu trí, Hà Nội 550. Trần Thanh Trác, giảng viên, TP HCM 551. Nguyễn Vi Khải, TS, Hà Nội 552. Trần Tuấn Lộc, cử nhân Kinh tế, cử nhân Luật, TP HCM 553. Nguyễn Thị May, giáo viên, Điện Biên 554. Lê Mạnh Đức, kỹ sư hưu trí TP HCM 555. Nguyễn Hữu Giải, linh mục Công giáo, Tổng Giáo phận Huế 556. Phan Văn Lợi, linh mục Công giáo, Giáo phận Bắc Ninh 557. Trần Nam, sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã nghỉ hưu, Lâm Đồng 558. Nguyễn Văn Trường, kinh doanh, Đồng Nai 559. Lê Đăng Dung, kỹ sư thủy lợi, Hà Nội 560. Nguyễn Bá Toàn, kỹ sư, đã nghỉ hưu 561. Cao Vi Hiển, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Kon Tum 562. Hoàng Đức Doanh, nghỉ hưu, Hà Nam 563. Hoàng Cao Nhân, kỹ sư tin học, TP HCM 564. Nguyen Huu Hiep, tài xế, TP HCM 565. Nguyễn Hoàng Long, bác sĩ, cựu tù nhân chính trị, Đà Nẵng 566. Chu Quốc Khánh, kỹ sư điện tử, cử nhân kinh tế, Hà Nội 567. Nguyễn Văn Chinh, kỹ sư cơ khí, Hà Nội 568. Đặng Phương Bắc, nhà giáo, Thái Bình 569. Nguyễn Thị Xuân Phượng, nhà hoạt động văn hóa, TP HCM 570. Nguyễn Việt, doanh nhân, Vương quốc Anh 571. Phạm Hồng Thanh, cử nhân, Hà Nội 572. Lê Thăng Long, doanh nhân, kỹ sư viễn thông, cựu tù nhân lương tâm, TP HCM 573. Lại Đức Hưng Quốc, TS, Maryland, Hoa Kỳ 574. Nguyễn Hồng Việt, Giám đốc doanh nghiệp, TP HCM 575. Vũ Văn Hiền, viên chức, Hà Nội 576. Hoàng Ngọc Cầm, TSKH, Hà Nội 577. Trần Quang Ngọc, kỹ sư điện, đã nghỉ hưu, Stuttgart, CHLB Đức 578. Phạm Minh Đức, bỏ việc, Quảng Ngãi 579. Nguyễn Chí Cường, thông dịch viên Việt Nhật, Kanagawa, Nhật Bản 580. Hoàng Quang Thái, chuyên viên điện toán hồi hưu, Hannover, CHLB Đức 581. Nguyễn Thạch Cương, TS nông nghiệp, Hà Tây 582. Nguyen Thien Công, kỹ sư cơ khí, buôn bán, hãng Mercedes, Werk Duesseldorf, CHLB Đức 583. Hoàng Nguyên, kỹ sư xây dựng, Quảng Ngãi 584. Nguyễn Kim Quang, cựu giáo viên, TP Cần Thơ 585. Vũ Thi Bích, hưu trí, Paris, Pháp 586. Nguyễn Đức Toàn, thạc sĩ kỹ thuật môi trường, TP HCM 587. Nguyễn Tiến Dũng, kinh doanh, TP Vinh 588. Trương Thế Kỷ, kỹ sư, CHLB Đức 589. Trần Đình Phan Tiến, thường dân, TP HCM 590. Ngô Thái Văn, kỹ sư, Missouri, Hoa Kỳ 591. Nguyễn Khuê Tú, sinh viên, Vancouver, Canada 592. Nguyễn Đức Nhuận, hưu trí, GS TSKH, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển SEDET CNRS/Université Paris 7, Pháp 593. Trương Minh Tịnh, Giám đốc Công ty Tithaco PTY LTD, Australia 594. Tuyet Ha, California, Hoa Kỳ 595. Minh Trinh Nguyen, cựu chiến binh, nguyên nghiên cứu viên Viện Mác-Lênin Hà Nội, Koblenz, CHLB Đức 596. Thi Bich Hang Nguyen, nội trợ, Koblenz, CHLB Đức 597. Phan Dang Khoi, LLB, J. D. Westminster, California, Hoa Kỳ 598. Nguyễn Văn Thân, kỹ sư điện toán, thành viên của "Tuyên bố của các Công dân Tự do", California, Hoa Kỳ 599. Vũ Thế Dũng, nhà văn, nhà thơ, Giám đốc NXB VIPEN, Berlin, CHLB Đức 600. Đào Tấn Anh Trúc, thợ điện, Pháp 601. Phạm Cường, đạo diễn, CHLB Đức 602. Hùng C Nguyễn, khoa học gia, Sydney, Australia 603. Lương Văn Điền, Graphic Designer, TP Huế 604. Lê Văn Hưng, kỹ sư lâm nghiệp, Đắk Lắk 605. Ky Dinh Pham, cựu thẩm phán Việt Nam Cộng Hoà, Australia 606. Lê Hữu Chính, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, Toronto, Canada 607. Vũ Công Giao, giảng viên đại học, Hà Nội 608. Mai Tiến Dũng, doanh nhân, T PHCM 609. Nguyễn Huy Tưởng, luật sư, Bình Dương 610. Lê Vĩnh Trương, nghề nghiệp vận tải tổng hợp, TP HCM 611. Bùi Đình Sệnh, công dân Việt Nam, Từ Liêm, Hà Nội 612. Trần Văn Lương, nghề tự do, Chương Mỹ, Hà Nội 613. Đỗ Quang Tuyến, kỹ sư, Seattle, Washington, Hoa Kỳ 614. Nguyễn Tấn Thành, doanh nhân, Nha Trang 615. Randy Vu, Los Angeles, Hoa Kỳ 616. Ken Nguyễn, thầu khoán (contractor), San Jose, California, Hoa Kỳ 617. Nguyễn Long Giang, kỹ sư đô thị, TP Vinh, Nghệ An 618. Phan Văn Thanh, đã nghỉ hưu, Hà Nội 619. Hồ Sỹ Lâm, kỹ sư xây dựng, Nghệ An 620. Phung Truong, cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, Hoa Kỳ 621. Nguyễn Thanh Nga, MBA, Hà Nội 622. Lê Hà Phú, kỹ sư lâm nghiệp, Hà Đông, Hà Nội 623. Nguyễn Dương, công nhân, Orlando, Florida, Hoa Kỳ Thứ bảy, ngày 28 tháng chín năm 2013 XÃ HỘI DÂN SỰ: DANH SÁCH TỪ ĐỢT 1 ĐẾN ĐỢT 5 Tuyên bố Về thực thi quyền Dân sự và Chính trị (Danh sách từ đợt 1 đến đợt 5) Hiến pháp hiện hành của nước ta quy định tại điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (mà Nhà nước Việt Nam ký tham gia ngày 24/9/1982) quy định cụ thể về quyền bày tỏ quan điểm, quyền hội họp và lập hội: “Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia” (trích điều 19[1]); “Quyền hội họp có tính cách hoà bình phải được thừa nhận” (trích điều 21); “Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình” (trích điều 22). Những quy định tương tự cũng có trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc được công bố ngày 10/12/1948 mà mọi quốc gia thành viên đếu phải tôn trọng [2]. Căn cứ vào những quy định đó, các ý kiến đóng góp cho việc sửa đổi Hiến pháp khác với quan điểm của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội lập, đặc biệt là về những điều cơ bản của thể chế chính trị (như Kiến nghị do 72 người ký trực tiếp ngày 19-1-2013, thường được gọi tắt là Kiến nghị 72, Tuyên bố của Hội đồng Giám mục, Tuyên bố công dân tự do, ý kiến trên trang mạng Cùng viết Hiến pháp, và nhiều ý kiến của đồng bào trong và ngoài nước trên các trang thông tin điện tử) là hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp và Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (dưới đây gọi tắt là Công ước quốc tế). Điều đó cũng đúng với nhiều tiếng nói đòi dân chủ và thực hiện các quyền tự do đã được quy định trong Hiến pháp, gắn liền với yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, hòa nhịp với các hình thức đấu tranh của nông dân bị mất đất, của công nhân đòi việc làm và cải thiện đời sống. Những tiếng nói đó của các tổ chức và nhóm như Hội đồng Giám mục, nhóm các chức sắc tôn giáo, nhóm công dân tự do, nhóm Tuyên bố 258, câu lạc bộ NoU, v.v., hoặc của nhiều cá nhân ở trong và ngoài nước mang tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ, đều được bày tỏ một cách ôn hòa, hợp pháp. Chúng tôi, những người ký tên dưới đây hoan nghênh ý thức xây dựng của những tiếng nói đó và thấy rằng để phản ảnh yêu cầu của đông đảo nhân dân, cần khởi xướng một Diễn đàn trao đổi và tập hợp các ý kiến nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa. Đó là mục đích hoạt động của Diễn đàn, hoàn toàn phù hợp với hiến pháp của nước ta và Công ước quốc tế. Diễn đàn này mang tên “Diễn đàn xã hội dân sự” và có trang thông tin điện tử là nơi bày tỏ ý kiến của các tổ chức, các nhóm, các cá nhân cùng theo đuổi mục đích nêu trên, với mong muốn xã hội dân sự ở nước ta phát triển đúng với yêu cầu của một nước dân chủ. Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền. Ý kiến khác nhau cần được tranh luận thẳng thắn để tìm chân lý; còn dựa vào quyền lực để cản trở việc công bố, không đối thoại mà chỉ đơn phương phê phán, quy kết, thậm chí dùng nhiều cách ngăn cấm và trấn áp thì không những vi hiến và trái với Công ước quốc tế mà còn không đúng với tư cách chính đáng của một nhà cầm quyền. Việc sửa đổi Hiến pháp đang còn ý kiến khác nhau về những vấn đề cơ bản của thể chế chính trị. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi dự định trình Quốc hội thông qua trong kỳ họp cuối năm tuy có một số điều chỉnh chi tiết nhưng về cơ bản vẫn duy trì thể chế toàn trị của giới cầm quyền nhân danh Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Thực tế ở nước ta cho thấy rõ: thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng; một “bộ phận không nhỏ” trong bộ máy lợi dụng quyền lực (cả quyền cai trị và quyền sử dụng, định đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản công) cấu kết với một số nhà kinh doanh làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất minh (cả trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân), hình thành các nhóm lợi ích bất chính, xâm phạm quyền lợi của nhân dân, dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo quá bất công ở nước ta. Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, có phần do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhưng phần quan trọng hơn, phổ biến hơn là do muốn bảo vệ và giành thêm lợi ích riêng bất chấp lợi ích chung của đất nước, của dân tộc. Đó là nguyên nhân gốc rễ khiến nước ta lâm vào khủng hoảng trên nhiều mặt: kinh tế suy giảm nặng và không ổn định, văn hóa giáo dục suy đồi, đạo đức băng hoại, môi sinh bị tàn phá, trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh thua kém nhiều nước trong khu vực, dân mất lòng tin đối với bộ máy cầm quyền; trong khi đó, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị thế lực bành trướng Trung Quốc gia tăng các hành động xâm phạm. Để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ, qua đó phát huy sức mạnh hòa giải và đoàn kết dân tộc, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. ĐCSVN, với vị trí là đảng đang cầm quyền, tự nhận vì nước vì dân, có trách nhiệm thúc đẩy quá trình chuyển đổi đó một cách chủ động, mở đầu bằng việc sửa đổi Hiến pháp. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống và cũng là phương án tối ưu cho sự chuyển đổi thể chế chính trị một cách ôn hòa ở nước ta. Nếu Hiến pháp sửa đổi vẫn duy trì thể chế toàn trị được thông qua và ban hành chính thức thì các thách thức mà đất nước và dân tộc đang đối mặt càng thêm nghiêm trọng dẫn tới hệ quả khôn lường, dân càng thất vọng và bất bình, uy tín của nước ta trong quan hệ quốc tế càng giảm sút. Đó thật sự là tai họa cho đất nước mà trách nhiệm thuộc về giới cầm quyền. Vì vậy, Diễn đàn xã hội dân sự yêu cầu Quốc hội dừng việc thông qua bản Hiến pháp sửa đổi trong đó thể chế chính trị hiện hành vẫn được duy trì về cơ bản, kéo dài thời gian thảo luận về Hiến pháp và thật lòng tổ chức nghiên cứu, tranh luận một cách thẳng thắn, nghiêm túc và công khai về những điều cơ bản của thể chế chính trị đang còn ý kiến khác nhau. Tuyên bố này được gửi tới các thành viên cơ quan lãnh đạo ĐCS và Nhà nước; đồng thời được công bố trên mạng xã hội để phổ biến rộng rãi, mong đồng bào trong và ngoài nước biểu thị sự đồng tình, hưởng ứng. Ngày 23 tháng 9 năm 2013 Những người khởi xướng Diễn đàn xã hội dân sự Ghi chú: - Ý kiến hưởng ứng Tuyên bố này xin gửi về địa chỉ e-mail: diendanxahoidansu@gmail.com - Cách thức tham gia Diễn đàn sẽ được thông báo sau. DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN TUYÊN BỐ THỰC THI QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ 23-9-2013 STT Họ và tên, chức danh (nghề nghiệp, nơi làm việc), thành phố/ nước 1. Nguyễn Đông Yên, GS TSKH, nhà toán học, Hà Nội 2. Phạm XuânYêm, GS Vật lý, Paris, Pháp 3. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu Lịch sử Văn hoá Huế, Huế 4. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế 5. Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội 6. JB Nguyễn Hữu Vinh, blogger, Hà Nội 7. Nguyễn Hữu Vinh, cử nhân luật, doanh nhân, Hà Nội 8. Vũ Quang Việt, nguyên chuyên viên cấp cao của Liên Hiệp Quốc, New York, Hoa Kỳ 9. Phan Thế Vấn, bác sĩ, TP HCM 10. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội 11. Lưu Trọng Văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa, TP HCM 12. Hà Dương Tường, nguyên giáo sư Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp 13. Trần Thị Tươi, cộng tác viên báo chí, TP. HCM 14. Hoàng Tụy, GS Toán học, nguyên Chủ tịch IDS, Hà Nội 15. Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội 16. Phạm Quang Tuấn, PGS, Đại học New South Wales, Sydney, Australia 17. Nguyễn Thế Trường, đại tá, cựu chiến binh, nguyên phóng viên báo Quân đội Nhân dân, nguyên Tổng biên tập báo Quân giải phóng Trung Trung Bộ, Hà Nội 18. Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội 19. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM 20. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, Phân viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam tại TP HCM, TP HCM 21. Nguyễn Thị Ngọc Trai, hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà Báo Việt Nam, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, Hà Nội 22. Nguyễn Thị Ngọc Toản, GS, bác sĩ, đại tá cựu chiến binh, TP HCM 23. Phạm Gia Toàn, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội 24. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội 25. Nguyễn Tường Thụy, blogger, cựu chiến binh, Hà Nội 26. Nguyễn Thị Thục, nhà báo, nguyên phóng viên đài Phát thanh Truyền hình Lâm Đồng, Đà Lạt 27. Phan Văn Thuận, Giám đốc Công ty TNHH Phú An Định, TP HCM 28. Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, TP HCM 29. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, TP HCM 30. Trần Văn Thọ, GS Kinh tế, Tokyo, Nhật Bản 31. Đào Tiến Thi, thạc sĩ Ngữ văn, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội 32. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo trước 1975, nguyên Tổng Thư ký Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Dân chủ Đà Lạt (1966), TP HCM 33. Giuse Maria Lê Quốc Thăng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM 34. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM 35. Nguyễn Văn Thạch, kỹ sư, TP Đà Nẵng 36. Trần Công Thạch, cán bộ hưu trí, TP HCM 37. Bùi Ngọc Tấn, nhà văn, Hải Phòng 38. Lê Văn Tâm, TS Hóa học, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Nhật Bản, TP HCM 39. Nguyễn Văn Tạc, giáo học hưu trí, Hà Nội 40. Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội 41. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM 42. Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng, Hà Nội 43. André Menras - Hồ Cương Quyết, nhà giáo, cựu tù trước 1975, Pháp 44. Trần Thị Quyên, nghề nghiệp tự do, TP HCM 45. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, Đà Lạt 46. Đỗ Trung Quân, nhà thơ, TP HCM 47. Nguyễn Đăng Quang, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội 48. Đặng Bích Phượng, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội 49. Phạm Xuân Phương, đại tá, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị, cựu chiến binh, Hà Nội 50. Đoàn Văn Phương, nguyên cán bộ Ban Giao bưu Trung ương Cục Miền Nam, TP HCM 51. Nguyễn Thị Hoài Phương, làm nghề tự do, Hà Nội 52. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên Phó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An 53. Nguyễn Hữu Phước, nhà báo, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, TP HCM 54. Hoàng Xuân Phú, GS TSKH Toán học, Hà Nội 55. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, giảng viên đại học, TP HCM 56. Hồ Ngọc Nhuận, nguyên Giám đốc chính trị, Chủ bút nhật báo Tin sáng Sài Gòn TP Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM, TP HCM 57. Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ công đoàn hưu trí, Đà Lạt 58. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội 59. Nguyễn Thái Nguyên, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội 60. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội 61. Phạm Đức Nguyên, PGS, giảng viên cao cấp Đại học Xây dựng Hà Nội, Hà Nội 62. Hạ Đình Nguyên, cử nhân giáo khoa Triết Đại học Sài Gòn, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM 63. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên IDS, Hội An 64. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM 65. Trần Tố Nga, nữ cựu tù chính trị, cán bộ hưu trí, TP HCM, Paris 66. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội 67. Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM 68. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM 69. Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội 70. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TP HCM, TP HCM 71. Trần Lương, nghệ sĩ thị giác, Hà Nội 72. Ngô Vĩnh Long, GS Sử học, University of Maine, Hoa Kỳ 73. Trần Văn Long, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM, nguyên Tổng Thư ký Uỷ ban cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam trước 1975, TP HCM 74. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội 75. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM 76. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới thuộc Tổng công ty Du lịch Sài Gòn, TP HCM 77. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên Viện phó Viện IDS, Hà Nội 78. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM 79. Nguyễn Khuê, cán bộ hưu trí, TP HCM 80. Lê Xuân Khoa, nguyên giáo sư thỉnh giảng, Viện Chính sách Đối ngoại, Đại học Johns Hopkins, Washington, DC, Hoa Kỳ 81. Nguyễn Vi Khải, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội 82. Lê Phú Khải, nhà báo, nguyên phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam, TPHCM 83. Phạm Khiêm Ích, PGS, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Hà Nội 84. Hà Thúc Huy, PGS TS, giảng viên đại học, TP HCM 85. Nguyễn Thị Hoài Hương, làm nghề tự do, Hà Nội 86. Hoàng Hưng, làm thơ - dịch sách - làm báo, TP HCM 87. Nguyễn Đăng Hưng, TSKH, GS Đại học Liège, Bỉ, đã hồi hương, TP HCM 88. Nguyễn Thế Hùng, GS Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng 89. Nguyễn Mạnh Hùng (Nam Dao), nguyên GS Kinh tế, Đại học Laval, Quebec, Canada 90. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, Nghệ An 91. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, TPHCM 92. Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP HCM, TP HCM 93. Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội 94. Phạm Duy Hiển, kỹ sư, Vũng Tàu 95. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội 96. Đặng Thị Hảo, TS, nguyên Phó Ban Văn học Cổ cận đại, Viện Văn học, Hà Nội 97. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội 98. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên IDS, Hà Nội 99. Trần Hải Hạc, TS, nguyên PGS Đại học Paris 13, Paris, Pháp 100. Hoàng Thị Hà, giáo viên về hưu, Hà Nội 101. Ngô Thanh Hà, cán bộ hưu trí, TP HCM 102. Lê Công Giàu, nguyên Tổng thư ký Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1966-1967), nguyên Phó Bí thư Thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM (1975-1980), nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP HCM (ITPC), TP HCM 103. Nguyễn Ngọc Giao, nguyên Phó Tổng thư ký Hội Người Việt Nam tại Pháp, Chủ biên tạp chí Diễn Đàn, Paris 104. Trần Tiến Đức, nhà báo, nguyên vụ trưởng Vụ Giáo dục - Truyền thông, Uỷ ban Quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình, Hà Nội 105. Huy Đức, nhà báo, TP HCM 106. Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí, TP HCM 107. Phạm Văn Đỉnh, TSKH, Toulouse, Pháp 108. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM 109. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam TP HCM, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP HCM khóa 4, khóa 5, TP HCM 110. Nguyễn Duy, nhà thơ, TP HCM 111. Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo, TP Huế 112. Trần Hữu Dũng, GS, nhà giáo nghỉ hưu, Dayton, Hoa Kỳ 113. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM 114. Phạm Chí Dũng, nhà báo, TP HCM 115. Nguyễn Anh Dũng, nhà giáo, cựu chiến binh, Hà Nội 116. Lê Đăng Doanh, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên thành viên IDS, Hà Nội 117. Nguyễn Xuân Diện, TS, Viện Hán Nôm, Hà Nội 118. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, TP HCM 119. Tống Văn Công, nhà báo, nguyên Tổng biên tập báo Lao Động, TP HCM 120. Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội 121. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM 122. Ngô Bảo Châu, GS Toán học, Hà Nội, Chicago 123. Bùi Chát, Nhà Xuất bản Giấy vụn, TP HCM 124. Thái Văn Cầu, chuyên gia về không gian, Hoa Kỳ 125. Nguyễn Trọng Bình, nguyên Hiệu trưởng Đại học tại chức Hải Phòng, TP HCM 126. Nguyễn Nguyên Bình, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội 127. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP HCM, TP HCM 128. Đặng Thị Nguyệt Ánh, TS, Hà Nội 129. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị chuồng cọp Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành ủy TP HCM, TP HCM 130. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội [1] Điều 19 của Công ước này còn có khoản kế tiếp như sau: 3-Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a-Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác. b-Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý. 2 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền quy định tại điều 19: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới” và điều 20: “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn hòa. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể”. Danh sách ký tên Đợt 2 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9 (tổng cộng đợt 1 và 2: 258 người) 131. Doãn Kiều Anh, kỹ sư, TP HCM 132. Lã Việt Dũng, kỹ sư tin học, Hà Nội 133. Nguyễn Việt Hà, kỹ sư, TP HCM 134. Chientrantien, Schanzen str 25, 90478 Nürnberg, CHLB Đức 135. Lê Quốc Chơn, nghiên cứu sinh TS Hóa vật liệu, Pháp 136. Nguyễn Thị Hải Yến, TS, CHLB Đức 137. Lê Nguyên Long, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 138. Nguyên Thi Thanh Van, phóng viên, Paris, Pháp 139. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Genève, Thuỵ Sĩ 140. Nguyễn Quyền, công nhân, München, CHLB Đức 141. Gerardo Nguyễn Nam Việt, linh mục Giáo phận Vinh, Hoa Kỳ 142. Trần Kim Thập, giáo chức, Perth, Australia 143. Nguyễn Công Hệ, thuyền trưởng viễn dương, TP HCM 144. Đặng Lợi Minh, giáo viên hưu trí, Hải Phòng 145. Trịnh Trọng Thủy, đảng viên đã bỏ sinh hoạt 3 năm, Hà Nội 146. Nguyễn Bá Dũng, kỹ sư, Hà Nội 147. Nguyễn Văn Dũng, Phó Chủ tịch Hội Người Hải Phòng tại CHLB Đức 148. Joseph Le, CPA, Sydney, Australia 149. Tô Oanh, giáo viên THPT, đã nghỉ hưu, TP Bắc Giang, Bắc Giang 150. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang, Khánh Hòa 151. Trương Long Điền, công chức hưu trí, Long Xuyên, An Giang 152. Ngô Khiết, công dân tự do, TP HCM 153. Nguyễn Hòa, Cao-học hành-chánh Sài-Gòn, đã nghỉ hưu, Hoa Kỳ 154. Le Mai Linh, thi sĩ/nhà văn, Hoa Kỳ 155. Phạm Đỗ Chí, nguyên chuyên viên cấp cao Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Washington DC, Hoa Kỳ 156. Hà Văn Thùy, nhà văn, thành phố Hồ Chí Minh 157. Hà Văn Chiến, cựu chiến binh, Thái Bình 158. Vu Huy Do, công nhân, Seattle, Hoa Kỳ 159. Nguyễn Thái Hùng, kỹ sư xây dựng, Vinh 160. Nguyễn Trung Thành, kỹ sư giao thông vận tải, Phú Thọ 161. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Tư pháp, Hà Nội 162. Chu Sơn, làm thơ viết văn tự do, TP HCM 163. Nguyễn Thị Kim Thoa, bác sĩ, TP HCM 164. Hồ Quang Huy, kỹ sư, Nha Trang 165. Dao Minh Chau, Hà Nội 166. Nguyễn Thượng Long, viết báo tự do, Hà Nội 167. Lê Anh Hùng, blogger, Hà Nội 168. Bùi Ngọc Mai, nội trợ, TP HCM 169. Lê Văn Xuân, Đắk Lắk 170. Nguyễn Văn Pháp, kỹ sư công nghệ sinh học, Thanh Hoá 171. Lê Văn Sinh, cựu giảng viên Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Hà Nội 172. Nguyễn Văn Trì, TP Biên Hòa, Đồng Nai 173. Nguyễn Chương, nhà báo tự do, TP HCM 174. Hoàng Bá Long, kinh doanh, Hải Phòng 175. Nguyễn Hồng Khoái, sĩ quan quân đội về hưu, Hà Nội 176. Nguyen Phuc Nguyen, kĩ sư, đã nghỉ hưu, Hà Nội 177. Đinh Hoàng Giang, doanh nhân, Hải Phòng 178. Bùi Phan Thiên Giang, chuyên viên mạng máy tính, TP HCM 179. Nguyễn Anh Tuấn, nhà làm phim độc lập, Hà Nội 180. Hà Huy Sơn, luật sư, Công ty Luật TNHH Hà Sơn, Hà Nội 181. Nguyễn Ngọc Cúc, kỹ sư, Thủ Dầu Một, Bình Dương 182. Lê Đoàn Thể, Hà Nội 183. Ngô Thanh Tú, blogger, Cam Ranh, Khánh Hòa 184. Nguyễn Hùng Sơn, họa sĩ, Hà Đông, Hà Nội 185. Hoang Nguyen Thuy Khe, nhân viên văn phòng, TP HCM 186. Phạm Ngọc Cảnh Nam, nhà văn, Đà Nẵng 187. Lương Đình Dzụ, TS, chuyên gia tại Hoa Kỳ, cựu du học sinh tại Nhật Bản, Hoa Kỳ 188. Nguyễn Quang Vinh, cán bộ Bộ Quốc phòng, Hà Nội 189. Trần Công Khánh, hưu trí, Hải Phòng 190. Lê Công Định, luật sư, cựu tù nhân lương tâm, TP HCM 191. Đỗ Toàn Quyền, kỹ sư, TP HCM 192. Trương Công Minh, kỹ sư, TP HCM 193. Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, TP HCM 194. Trần Việt Thắng, thạc sĩ, Hà Nội 195. Nguyễn Khánh Dương, kỹ sư, Bình Thuận 196. Nguyễn Kim Thái, cử nhân, doanh nhân, Bà Rịa-Vũng Tàu 197. Đào Nguyên Ngọc, cựu chiến binh, CHLB Đức 198. Ngô Thúy, họa sĩ tự do, Hà Nội 199. Trần Rạng, giáo viên, TP HCM 200. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội 201. Thân Hải Thanh, nguyên Tổng Giám đốc Benthanhtourist, TP HCM 202. Trần Quốc Lộc, kỹ sư đã nghỉ hưu TP HCM 203. Nguyễn Kim Bình, TS Y Khoa, đã nghỉ hưu, Brisbane, Australia 204. Chu Mạnh Chi, nguyên giảng viên đại học, Đà Lạt 205. Đặng Lê Hoàng, chuyên viên công nghệ thông tin, TP HCM 206. Nguyễn Tấn Lạc, California, Hoa Kỳ, phụ trách websites: diendancuachungta.com và tudotongiao.wordpress.com 207. Nguyễn Quốc Thản, kỹ sư, Tokyo, Nhật Bản 208. Trần Minh Khôi, kỹ sư điện toán, Berlin, CHLB Đức 209. Đỗ Thành Nhân, MBA, quản lý doanh nghiệp, TP Quảng Ngãi 210. Nguyễn Vũ, kỹ sư, hành nghề tự do, TP HCM 211. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, TP HCM 212. Đặng Minh Điệp, thạc sĩ, giảng viên đại học, TP HCM 213. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, TP HCM 214. Nguyễn Văn Viên, nhân viên IT, Hà Nội 215. Vũ Văn Vân, kỹ sư, Hà Nội 216. Nguyễn Văn Nhượng, kỹ sư, đang nghỉ hưu, Lausanne, Thụy Sĩ 217. Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia công nghệ thông tin, Pháp 218. Phạm Vương Ánh, kỹ sư kinh tế, cựu sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, Vinh 219. Vũ Quốc Ngữ, thạc sĩ, Hà Nội 220. Trần Anh Đức, sinh viên Luật, Hà Nội 221. Nguyễn Trung Hiếu, cử nhân Xã hội học, du học sinh tại Tokyo, Nhật Bản 222. Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM 223. Việt Ông, kinh doanh, TP HCM 224. Hoàng Dương Tuấn, GS Đại học Công nghệ Sydney, Australia 225. Nguyễn Xuân Bách, kỹ sư, CHLB Đức 226. Tạ Thị Vân, kinh doanh, CHLB Đức 227. Nguyễn Hữu Chuyên, giáo viên, Thái Bình 228. Trần Ngọc Tuấn, nhà báo, CH Czech 229. Tran Ke Dung, đảng viên Đảng Lao động Australia, Australia 230. Đoàn Lâm Tất Linh, Kiên Giang 231. Nguyễn Đức Việt, chuyên viên công nghệ thông tin, Sydney, Australia 232. Khúc Thị Tình (Blog thơ Tiếng Sóng Biển), doanh nhân, CHLB Đức 233. Vũ Thị Nhuận, TS/nội trợ, TP Cần Thơ 234. Trần Ngọc Báu, hưu trí, Fribourg, Thuỵ Sĩ 235. Phan Văn Tráng, kỹ sư xây dựng, TP HCM 236. Cao Thiện Phước, kỹ sư, Pháp 237. Trần Tuấn Dũng, hưu trí, Quebec, Canada 238. Đào Duy Chữ, TS Khoa học tự nhiên, TP HCM 239. Nguyễn Duy, TP HCM 240. Lê Minh Hằng, TS, Hà Nội 241. Lê Hữu Minh Tuấn, cử nhân Sử, Quảng Nam 242. Nguyễn Trường Toản, Thanh tra Công trường Xây dựng, Houston, Hoa Kỳ 243. Phạm Hữu Uyển, IT, CH Czech 244. Trịnh Hồng Kỳ, cựu chiến binh, An Giang 245. Nguyễn Quốc Vũ, IT, CH Czech 246. Dang Ngoc Quang, nghề tự do, Hà Nội 247. Dương Tùng, Bình Dương 248. Nguyễn Anh Phú, biên tập viên, Hà Nội 249. Nguyễn Văn Lịch, làm nghề tự do, TP HCM 250. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TP HCM 251. Nguyễn Văn Duyên, kỹ sư, Hà Nam 252. Phạm Đưc Quý, chuyên viên nghỉ hưu, Hà Nội 253. Le Hung Dung, kinh doanh, CH Czech 254. Vũ Trung Đồng, kỹ sư, TP HCM 255. Nguyễn Công Huân, biên tập viên trang Dân Luận, PGS Đại học Aaborg, Đan Mạch 256. Vũ Mạnh Hùng, Warszawa, Ba Lan 257. Hồ Trọng Đễ, kỹ sư cơ khí, TP HCM 258. Nguyen Hong Duc, kỹ sư, Hà Nội Danh sách ký tên Đợt 3 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9 (tổng cộng đợt 1, 2 và 3: 375 người) (đã xoá 7 người trùng tên) 259. Trần Đức Hào, cựu tù nhân, cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, TP Đà Nẵng 260. Trịnh Xuân Thuỷ, kinh doanh, TP HCM 261. Đàm Quốc Khánh, kỹ sư Hàng hải, TP HCM 262. Chu Trọng Thu, cựu giảng viên Đại học Sư phạm, cựu chiến binh, TP HCM 263. Vũ Ngọc Thăng, dịch giả, Canada 264. Nguyễn Minh Khanh, kỹ sư Tin học, Paris, Pháp 265. Ngô Văn Hòa, thợ may, Hòa Vang, Đà Nẵng 266. Nguyễn Văn Phúc, kỹ sư, Bình Định 267. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội 268. Lê Mạnh Quang, thạc sĩ, nguyên là giảng viên Đại học Tây Bắc 269. Hoàng Quý Thân, PGS TS, Hà Nội 270. Bùi Trần Đăng Khoa, luật sư, TP HCM 271. Nguyễn Khánh Trung, TS, Pháp 272. Phan Bích Hoàng Thu, kỹ sư, TP HCM 273. Nguyễn Hồng Kiên, TS Sử học, Viện Khảo cổ học, Hà Nội 274. Đinh Huyền Hương, nhà giáo, đã nghỉ hưu, TP HCM 275. Nguyễn Ngọc Thạch, hưu trí, TP HCM 276. Bùi Quang Thắng, thạc sĩ quản trị kinh doanh, Hà Nội 277. Huỳnh Thục Vy, blogger bất đồng chính kiến, Quảng Nam 278. Vũ Sỹ Hoàng, phóng viên tự do, blogger Hành Nhân 279. Lưu Văn Minh, sinh viên, Hà Nội 280. Nguyễn Ngọc Sẵng, TS giáo dục, tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ 281. Mai Nhật Đăng, học sinh, Tokyo, Nhật Bản 282. Nguyễn Quốc Quân, TS Toán, cựu tù nhân lương tâm, California, Hoa Kỳ 283. Đào Thanh Thủy, cán bộ hưu trí, Hà Nội 284. Đặng Đình Cung, kỹ sư tư vấn, Pháp 285. Phạm P Long, kỹ sư, Hoa Kỳ 286. Tho Lê, nghỉ hưu, Victoria, Australia 287. Hoàng Quốc Hùng, doanh nhân, Praha, CH Czech 288. Quang Tran, IT, Hoa Kỳ 289. Nguyen Quang Tuyen, nghệ sĩ thị giác, San Francisco, California, Hoa Kỳ 290. Bùi Văn Phú, GS Đại học Cộng đồng California, nhà báo tự do 291. Trương Lợi, kỹ sư, TP HCM 292. Lý Đăng Thạnh, người chép sử, TP HCM 293. Lê An Vi, cử nhân Luật, Hà Nội 294. Lê Dũng, blogger, Hà Nội 295. Trần Thị Thanh Tâm, nội trợ, Warzsawa, Ba Lan 296. Trần Xuân Sơn, Hà Nội 297. Nguyễn Khánh Hưng, thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA), Sacramento, California 298. Châu Kỳ, Chemical Engineer, Hoa Kỳ 299. Hồ Văn Tích, kỹ sư, TP HCM 300. Dinh Khac Luong, kỹ sư cơ khí, Hà Nội 301. Nguyễn Phúc Thọ, kỹ sư Tin học, Colombes, Pháp 302. Nguyễn Hồng Phi, họa sĩ, Bangkok, Thái Lan 303. Lê Văn Sinh, MBA, Vương Quốc Anh 304. Đỗ Minh Tuấn, nhà thơ, đạo diễn, Hà Nội 305. Phạm Thanh Lâm, kỹ sư điện tử, Copenhagen, Đan Mạch 306. Phạm Văn Điệp, Chủ nhiệm Câu lạc bộ những người Việt mong muốn Việt Nam hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ, Liên Bang Nga 307. Âu Dương Thệ, TS, Hiệp hội Dân chủ và Phát triển Việt Nam, Dortmund, Đức 308. Ngô Trừng Bình, An Giang 309. Nhâm Thiếu Bảo, kỹ sư cơ khí, Hà Nội 310. Vũ Tiến Nga, kỹ sư cơ khí, TP HCM 311. Nguyễn Trung Luân, Trưởng phòng, Sở Công Thương TP HCM 312. Ngọc Nam Phương, Cao Bằng 313. Châu Xuân Nguyễn, blogger, kỹ sư cơ khí, Melbourne, Australia 314. Phan Như Hiển, Núi Thành, Quảng Nam 315. Đỗ Đăng Liêu, Australia 316. Châu Kỳ, Engineer, Los Angeles, Hoa Kỳ 317. Huỳnh Bảo Đức, TP HCM 318. Nguyễn Văn Hưng, nghề tự do, cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, California, Hoa Kỳ 319. Cao Tan-Lôc, Paris, Pháp 320. Pham Van Thanh, Hoa Kỳ 321. Nguyễn Thành Chiến, nghiên cứu sinh, Zweibrueken, CHLB Đức 322. Huỳnh Công Thuận, blogger, TP HCM 323. Đỗ Hữu Tuyến, học sinh, Vũ Thư, Thái Bình 324. Nguyễn Quốc Hưng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, hiện làm việc tại Roma, Italia 325. Mike Nguyễn, Engineering Manager, Michigan, Hoa Kỳ 326. Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, dịch thuật, hành nghề tự do, Berlin, CHLB Đức 327. Trần Công Thắng, bác sĩ, Kristiansand, Na Uy 328. Đỗ Như Phương, kỹ sư, nguyên đảng viên Đảng Cộng sản, Hungary 329. Quan Vinh, chuyên viên tin học, Rome, Italia 330. Vũ Tuấn, TS điện tử, CHLB Đức 331. Bùi Tín, nhà báo tự do, Pháp 332. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ y khoa, Paris, Pháp 333. Trần Trung Sơn, TS, giảng viên trường Sĩ quan Không quân 334. Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư điện tử, CHLB Đức 335. Nguyễn Văn Hóa, Insurance Broker (California State), San Jose, California, Hoa Kỳ 336. Tran Mai Sinh, CHLB Đức 337. Le Thanh Hong, CPA, Melbourne, Australia 338. Lê Đặng Thụy, Na Uy 339. Hoàng Lan, nguyên giảng viên Đại học Sư phạm TP HCM, TP HCM 340. Lê Cường, Graphic Designer, Hoa Kỳ 341. Đại Nghĩa, cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, Hoa Kỳ 342. Nguyễn Văn Cung, nhạc sĩ, thượng tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội 343. Trần Đức Thạch, nhà thơ, Nghệ An 344. Nguyễn Lân Thắng, kỹ sư xây dựng, Hà Nội 345. Phan Văn Song, nguyên Quyền Hiệu trưởng trường THPT Chuyên Bến Tre, Australia 346. Hoàng Minh Giám, linh mục, Nam Định 347. Vũ Minh Trí, kĩ sư cơ khí, Cầu Giấy, Hà Nội 348. Tung Nguyen, Oklahoma City, Oklahoma, Hoa Kỳ 349. Ngô Đức Đoàn, kế toán, TP Bà Rịa, Bà Rịa-Vũng Tàu 350. Trần Đức Cung, TS, hưu trí, TP HCM 351. Nghiệp Nguyễn Duy, doanh nhân, Thừa Thiên Huế 352. Đinh Tấn Lực, blogger, BKK/VTE/PNH/KUL/MNL - SouthEast Asia 353. Le Xuan Quang, cựu chiến binh, TP HCM 354. Nguyễn Văn Sang, nông dân, Bắc Giang 355. Ngô Đức Thọ, PGS TS Ngữ văn, nghỉ hưu, Hà Nội 356. Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, TP HCM 357. Trần Thọ Hưng, kỹ sư cầu đường, TP HCM 358. Nguyễn Minh Mẫn, kỹ sư Hoá học, Misissauga, Ontario, Canada 359. Vũ Thị Phương Anh, PhD, giảng viên, nghiên cứu giáo dục, TP HCM 360. Lê Văn, TS Vật lý, TP HCM 361. Nguyễn Anh Tuấn, GS TS, Hà Nội 362. Nguyễn Hữu Tế, TP HCM 363. Bùi Quang Lộc, giáo viên, TP HCM 364. Dương Sanh, cựu giáo viên, Khánh Hòa 365. Nguyễn Ánh Tuyết, cán bộ viễn thông, Hà Nội 366. Phi Vũ, công nhân, blogger, California, Hoa Kỳ 367. Nguyễn Phương Chi, nguyên biên tập viên chính Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Viện Văn học (đã nghỉ hưu), Hà Nội 368. Nhật Tuấn, nhà văn, TP HCM 369. Vũ Hải Long, TSKH, cán bộ Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, đã nghỉ hưu, TP HCM 370. Trần Quốc Hùng, cựu giáo viên, TP HCM 371. Nguyễn Steve, ngành IT, Sydney, Australia 372. Dao Kim Son, kinh doanh tự do, TP HCM 373. Phan Lê Tuấn, TP HCM 374. Phạm Kỳ Thụy, kỹ sư xây dựng, Cầu Giấy, Hà Nội 375. Lê Ngọc Xuân, TP HCM Danh sách ký tên Đợt 4 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9 (tổng cộng các đợt 1- 4: 497 người) 376. Nguyễn Trần Dũng, công ty cổ phần, Hà Nội 377. Đoàn Thanh Liêm, Costa Mesa, California, Hoa Kỳ 378. Đào Thu Huệ, giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 379. Lê Hà, công nhân, Nuremberg, CHLB Đức 380. Tony Bùi, Pháp 381. Trương Văn Lợi, nghị viên Hội đồng thành phố Dandenong, tiểu bang Victoria, Australia 382. Nguyễn Ngọc Sơn, kinh doanh, cựu chiến binh, TP HCM 383. Nguyễn An Liên, công nhân, TP Đà Nẵng 384. Lê Tân, blogger, TP HCM 385. Ngô Thị Hồng Lâm, nhân viên nghiên cứu lịch sử Đảng, đã nghỉ hưu, TP Vũng Tàu 386. Đinh Thái Trung, Giám đốc Trung tâm Khai Trí (trường tư thục Việt- Mỹ), Houston,Texas, Hoa Kỳ 387. Trần Đình Thắng, cựu giảng viên, TP HCM 388. Nguyên Ân, nhà báo / nhà thơ, California, Hoa Kỳ 389. Nguyễn Đức Giang, cựu chiến binh, Hà Nội 390. Nguyễn Tường Tâm, luật gia, San Jose, Hoa Kỳ 391. Trần Tư Bình, giáo chức, Sydney, Australia 392. Nguyễn Văn Cường, kỹ sư xây dựng cầu đường, Hải Dương 393. Lê Văn Tuynh, blogger, Phan Thiết 394. Phạm Tư Thanh Thiện, nguyên Phó Trưởng ban Việt ngữ Đài RFI, Pháp 395. Dương Văn Nam, công nhân viễn thông, Nam Định 396. Nguyễn Thanh Bình, Sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam, Hà Nội 397. Dương Hồng Lam, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn miền Nam, hưu trí, TP HCM 398. Rick Phan, kỹ sư, Canada 399. Nguyễn Đức Phổ, nông dân, Lâm Đồng 400. Nguyễn Thanh Xuân, công nghệ thông tin, TP HCM 401. Nguyễn Minh Nhựt, programer & designer, TP HCM 402. Trịnh Lê Thanh, kỹ sư vô tuyến điện, quận Lê Chân, Hải Phòng 403. Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, cựu giảng viên đại học, An Giang 404. Lê Hồng Quang, kinh doanh, TP HCM 405. Lê Văn Oanh, kỹ sư, Hà Nội 406. Phạm Thị Lâm, cán bộ hưu trí, Hà Nội 407. Ngô Điều, sĩ quan nghỉ hưu, đảng viên lớp 6-1-1960, Hà Nội 408. Lê Anh Dũng, lao động tự do, Hải Phòng 409. Lương Văn Liệt, nguyên là cán bộ lực lượng Thanh niên Xung phong, cán bộ Chi cục Thuế TP HCM 410. Nguyễn Thành Nhân, kỹ sư, TP HCM 411. Nguyễn Đăng Lập, kỹ sư kinh tế, TP Bà Rịa, Bà Rịa-Vũng Tàu 412. Lương Đỗ Long, công nhân, Mỹ Đình, Hà Nội 413. Trần Phúc Thông, cựu chiến binh Việt-Campuchia-Lào, Hà Nội 414. Huỳnh Trung Hiếu, xã Phước Hưng, huyện Trà Cú, Trà Vinh 415. Bùi Kim Nhung, hưu trí, TP HCM 416. Phan văn Phong, kinh doanh tự do, Hoàn Kiếm, Hà Nội 417. Phạm Xuân Hưng, trình dược viên, Hà Nội 418. Nguyễn Minh Khang, nhân viên vi tính, TP HCM 419. Nguyễn Ngọc Hoài Ân, kỹ sư tin học, TP HCM 420. Lê Xuân Diệu, cử nhân Kinh tế, kinh doanh tự do, Đắk Lắk 421. Lưu Quý Định, kỹ sư, Munich, CHLB Đức 422. Trương Vĩnh Phúc, cử nhân, cựu chiến binh, Hà Nội 423. Bùi Thanh Thám, kế toán, TP HCM 424. Xà Quế Châu, đầu bếp, TP HCM 425. Trần Quang Thành, nhà báo, cựu phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Slovakia 426. Phạm Văn Giang, hướng dẫn viên du lịch, Hà Nội 427. Trần Văn Khoản, nguyên cựu chiến binh, nguyên đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (vào Đảng năm 1974, từ bỏ năm 1989), nghề tự do, TP Vũng Tàu 428. Trần Văn Terry, công nhân, Irvine CA, Hoa Kỳ 429. Hoang Dinh, System Engineer, Odense, Đan Mạch 430. Nguyen Van Trien, San Diego, California, Hoa Kỳ 431. Nguyễn Hoành Hùng, kỹ sư, Vũng Tàu 432. Hà Nguyễn, Đà Lạt, Lâm Đồng 433. Trọng Nghĩa, kỹ sư máy tàu biển, Hải Phòng 434. Nguyễn Quốc Lân, giáo viên, nghỉ hưu 435. Nguyễn Hữu Trường, công dân tự do, Bình Dương 436. Nguyễn Anh Tuấn, kiến trúc sư, Hà Nội 437. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp 438. Nguyễn Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp 439. Võ Quang Luân, hưu trí, Hà Nội 440. Hoàng Lê Nam, kỹ sư Tin học, Hà Nội 441. Bui Quang Trung, kỹ sư xây dựng, Pháp 442. Nguyễn Kiến Phước, nhà báo, TP HCM 443. Hoàng Mười, cán bộ nghỉ hưu, Cầu Giấy, Hà Nội 444. Trần Văn Vinh, cử nhân luật, hướng dẫn du lịch, Hà Nội 445. Dao Quang Huy, doanh nhân, Praha, CH Czech 446. Khoa Nguyễn, COS, Virginia, Hoa Kỳ 447. Lanney Trần, Phụ tá Pháp lý/Giáo dục, California, Hoa Kỳ 448. Mai Văn Tuất, tức Facebooker Văn Ngọc Trà, kỹ sư, TP HCM 449. Trần Văn Tuyến, sinh viên, TP HCM 450. Nguyễn Sĩ Đáng, kiến trúc sư, Australia 451. Nguyễn Thị Tuyết Thanh, nhân viên phụ trách nhà cửa, London, Anh Quốc 452. Vũ Văn Thịnh, bác sĩ, đã nghỉ hưu, Thái Nguyên 453. Đặng Vũ Giang, TS, cán bộ nghiên cứu, Hà Nội 454. Hồng Sa Ngạn, giáo viên, Lai Châu 455. Nguyễn Trung Tôn, mục sư, Quảng Xương, Thanh Hóa 456. Nguyen Anh Tam, kỹ sư công trình, giám đốc công trình chuyên ngành về tự động hoá, Canada 457. Dương Văn Vinh, nguyên sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, TP HCM 458. Võ Thanh Hà, giáo viên, Hà Nội 459. Đặng Nguyễn Hoài Mơ, TP HCM 460. Nguyễn Phương Quân, Xây dựng - Nội thất, Hà Nội 461. Lương Đình Cường, Tổng Biên tập Báo điện tử NguoiViet 462. Peter Nguyen Duc Hung, nhân viên bưu điện, Oslo, Na Uy 463. Nguyễn Zion, hưu trí, Philadelphia, Hoa Kỳ 464. Nguyễn Văn Nghiêm, lao động tự do, TP Hòa Bình, Hòa Bình 465. Phạm Thông, nghề tự do, Hà Nội 466. Nguyễn Kim Huân, kỹ sư xây dựng, Hà Nội 467. Nguyễn Duy Hải, giáo viên, Long An 468. Phan Đức Vinh, vi tính, Sydney, Australia 469. Nguyễn Mê Linh, TS, TP HCM 470. Lê Khánh Hùng, TS công nghệ thông tin, Hà Nội 471. Đặng Trường Lưu, hoạ sĩ, nhà phê bình Mỹ thuật, Hà Nội 472. Trần Quốc Túy, kỹ sư Hóa, hưu trí, Hà Nội 473. Bùi Chí Tâm, nghề tự do, Quảng Ngãi 474. Võ Văn Rân, hưu trí, Hoa Kỳ 475. Thùy Linh, nhà văn, Hà Nội 476. Đông Xuyến, Dr. Tâm lý Trị liệu, California, Hoa Kỳ 477. Hà Văn Thịnh, nhà giáo, Huế 478. Phạm Trung Kiên, thạc sĩ sử học, dạy học, Hà Nội 479. Trần Nhật Phương, công nhân, Nghệ An 480. Lê Thanh Quang, nguyên là cơ sở cách mạng Biệt Động Thành Đà Nẵng 1973 – 1975, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia 1977 – 1981, làm nông, Đà Nẵng 481. Nguyễn Trọng Quyết, luật sư, Hải Dương 482. Bùi Như Giang, sinh viên y khoa, TP HCM 483. Ngô Thanh Nhã, Canada 484. Nguyễn Thành Trung, công nhân, Bình Dương 485. Nguyễn Mạnh Hùng, nhà giáo, cựu chiến binh, TP HCM 486. Ngô Văn Hiếu, nguyên Tổng Thư ký Ủy ban Đòi Nhân quyền cho Việt Nam, nguyên Tổng Thư ký Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, Hoa Kỳ 487. Tô Hoà, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM 488. Nguyễn Công Minh, linh mục, TP HCM 489. Phero Nguyễn Văn Khải, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, Hà Nội 490. Huỳnh Minh Tú, kinh doanh tự do, blogger, Berlin, CHLB Đức 491. Vũ Ngọc Tuyến, sĩ quan quân đội nghỉ hưu, Hà Nội 492. Nguyễn Quang Huy đã nghỉ hưu, Bắc Ninh 493. Nguyễn Huy Hoàng, kinh doanh, Hà Nội 494. Andy Vu, công nhân, Sydney, Australia 495. Nguyễn Việt Bách (bút danh Phan Thành Đạt), hướng dẫn viên du lịch, luật gia, Pháp 496. Phạm Minh Hoàng, nguyên giảng viên Đại học Bách Khoa TP HCM 497. Ngô Văn Phương, nguyên Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP HCM, TP HCM Danh sách ký tên Đợt 5 – hưởng ứng Tuyên bố 23/9 (tổng cộng các đợt 1- 5: 623 người) 498. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, Giám đốc Chi nhánh Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, TP HCM 499. Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ - nhạc sĩ - nhà báo, Hà Nội 500. Huy Trần, Đại học Viên, Áo 501. Hoàng Xuân Sơn, luật sư, TP HCM 502. Võ Đăng Khoa, thạc sĩ công nghệ thông tin, Houston, Texas, Hoa Kỳ 503. Nguyễn Mạnh Cường, kinh doanh, CH Czech 504. Đạt Nguyễn, PhD, Virginia Commonwealth University, Hoa Kỳ 505. Phạm Duy Lương (Trí Dân), Aš, CH Czech 506. Nguyễn Nguyên Khôi, Perth, Australia 507. Vũ Đức Khanh, luật sư, Ottawa, Canada 508. Nguyễn Tiến Dũng, cử nhân công nghệ thông tin, trung tá Bộ đội Biên phòng, đã nghỉ hưu, Thanh Hoá 509. Trần Văn Tiến, kinh doanh, CH Czech 510. Nguyễn Ánh Tuyết, cử nhân kinh tế, London, Vương quốc Anh 511. Nguyễn Quế Hương, kiến trúc sư, HCM 512. Trần Văn Thiện, kỹ sư, Hà Nội 513. Nguyễn Hồng Quân, kỹ sư kết cấu, Hoa Kỳ 514. Toàn Khanh Hoàng, kỹ sư tin học, Frankfurt, CHLB Đức 515. Nguyen Dinh Thang, TS, kỹ sư cơ khí, Tổng Giám đốc, Hoa Kỳ 516. Ngô Trí, đã về hưu, Port Coquitlam, Canada 517. Ngo Bao Vinh, kỹ sư xây dựng, Australia 518. Hoàng Đức Vương, kỹ sư, TP HCM 519. Lê Quang, thạc sĩ giáo dục, Hà Nội 520. Đặng Lâm, nhân viên xã hội, Vancouver, Canada 521. Nguyễn Ái Chi, nguyên cán bộ phòng Tuyên huấn trường Đại học Thương Mại, TP HCM 522. Hoang Tam Tam, kỹ sư, nghề tự do, Australia 523. Lê Hồng Phong, cử nhân kinh tế, Hà Nội 524. Huỳnh Thị Thu, kế toán, FDI, Trảng Bom, Đồng Nai 525. Đỗ Thái Bình, kỹ sư đóng tàu, TP HCM 526. Đức Long, TS, bác sĩ, TP HCM 527. Đoàn Văn Cánh, nguyên giảng viên cao cấp trường đại học, Hà Nội 528. Đỗ Đình Oai, giáo viên Toán, Quảng Ngãi 529. Nguyễn Thanh Cường, kinh doanh, TP HCM 530. Pham Nguyen, kỹ sư tin học, Washington DC, Hoa Kỳ 531. Ta Thanh, công nhân, Hoa Kỳ 532. Phan Tấn Hải, nhà văn, Hoa Kỳ 533. Phung Thi Ly, cử nhân, TP HCM 534. Lê Bách Phong, kinh doanh, Bà Rịa-Vũng Tàu 535. Bùi Kiến Quốc, kiến trúc sư, thạc sĩ khoa học về Đô thị học, doanh nhân, Hà Nội 536. Dương N Ánh, kỹ sư dầu khí, chuyên viên dầu cát & khí đá, Houston, Hoa Kỳ 537. Đinh Quang Minh, cử nhân kinh tế, Hà Nội 538. Hàn Quang Vinh, kỹ sư tin học, Hà Nội 539. Trần Ngọc Thạch, cán bộ lâm nghiệp, Bình Định 540. Vũ Duy Thắng, kinh doanh tự do, Đông Anh, Hà Nội 541. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư điện, Khánh Hòa 542. Nguyễn Quốc Minh, nhà thơ, Hà Nội 543. Ngô Đình Thục, nghỉ hưu, Hoa Kỳ 544. Nguyễn Đức Tùng, M.D., Vancouver, Canada 545. Bùi Việt Hà, Công ty Công nghệ Tin học Nhà trường, Hà Nội 546. Vũ Trí Đức, nghề tự do, Hà Nội 547. Vũ Bất Khuất, người làm thơ, TP Rạch Giá 548. Mai Sơn, viết văn, dịch thuật, TP HCM 549. Lê T Hong Hạnh, hưu trí, Hà Nội 550. Trần Thanh Trác, giảng viên, TP HCM 551. Nguyễn Vi Khải, TS, Hà Nội 552. Trần Tuấn Lộc, cử nhân Kinh tế, cử nhân Luật, TP HCM 553. Nguyễn Thị May, giáo viên, Điện Biên 554. Lê Mạnh Đức, kỹ sư hưu trí TP HCM 555. Nguyễn Hữu Giải, linh mục Công giáo, Tổng Giáo phận Huế 556. Phan Văn Lợi, linh mục Công giáo, Giáo phận Bắc Ninh 557. Trần Nam, sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã nghỉ hưu, Lâm Đồng 558. Nguyễn Văn Trường, kinh doanh, Đồng Nai 559. Lê Đăng Dung, kỹ sư thủy lợi, Hà Nội 560. Nguyễn Bá Toàn, kỹ sư, đã nghỉ hưu 561. Cao Vi Hiển, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Kon Tum 562. Hoàng Đức Doanh, nghỉ hưu, Hà Nam 563. Hoàng Cao Nhân, kỹ sư tin học, TP HCM 564. Nguyen Huu Hiep, tài xế, TP HCM 565. Nguyễn Hoàng Long, bác sĩ, cựu tù nhân chính trị, Đà Nẵng 566. Chu Quốc Khánh, kỹ sư điện tử, cử nhân kinh tế, Hà Nội 567. Nguyễn Văn Chinh, kỹ sư cơ khí, Hà Nội 568. Đặng Phương Bắc, nhà giáo, Thái Bình 569. Nguyễn Thị Xuân Phượng, nhà hoạt động văn hóa, TP HCM 570. Nguyễn Việt, doanh nhân, Vương quốc Anh 571. Phạm Hồng Thanh, cử nhân, Hà Nội 572. Lê Thăng Long, doanh nhân, kỹ sư viễn thông, cựu tù nhân lương tâm, TP HCM 573. Lại Đức Hưng Quốc, TS, Maryland, Hoa Kỳ 574. Nguyễn Hồng Việt, Giám đốc doanh nghiệp, TP HCM 575. Vũ Văn Hiền, viên chức, Hà Nội 576. Hoàng Ngọc Cầm, TSKH, Hà Nội 577. Trần Quang Ngọc, kỹ sư điện, đã nghỉ hưu, Stuttgart, CHLB Đức 578. Phạm Minh Đức, bỏ việc, Quảng Ngãi 579. Nguyễn Chí Cường, thông dịch viên Việt Nhật, Kanagawa, Nhật Bản 580. Hoàng Quang Thái, chuyên viên điện toán hồi hưu, Hannover, CHLB Đức 581. Nguyễn Thạch Cương, TS nông nghiệp, Hà Tây 582. Nguyen Thien Công, kỹ sư cơ khí, buôn bán, hãng Mercedes, Werk Duesseldorf, CHLB Đức 583. Hoàng Nguyên, kỹ sư xây dựng, Quảng Ngãi 584. Nguyễn Kim Quang, cựu giáo viên, TP Cần Thơ 585. Vũ Thi Bích, hưu trí, Paris, Pháp 586. Nguyễn Đức Toàn, thạc sĩ kỹ thuật môi trường, TP HCM 587. Nguyễn Tiến Dũng, kinh doanh, TP Vinh 588. Trương Thế Kỷ, kỹ sư, CHLB Đức 589. Trần Đình Phan Tiến, thường dân, TP HCM 590. Ngô Thái Văn, kỹ sư, Missouri, Hoa Kỳ 591. Nguyễn Khuê Tú, sinh viên, Vancouver, Canada 592. Nguyễn Đức Nhuận, hưu trí, GS TSKH, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển SEDET CNRS/Université Paris 7, Pháp 593. Trương Minh Tịnh, Giám đốc Công ty Tithaco PTY LTD, Australia 594. Tuyet Ha, California, Hoa Kỳ 595. Minh Trinh Nguyen, cựu chiến binh, nguyên nghiên cứu viên Viện Mác-Lênin Hà Nội, Koblenz, CHLB Đức 596. Thi Bich Hang Nguyen, nội trợ, Koblenz, CHLB Đức 597. Phan Dang Khoi, LLB, J. D. Westminster, California, Hoa Kỳ 598. Nguyễn Văn Thân, kỹ sư điện toán, thành viên của "Tuyên bố của các Công dân Tự do", California, Hoa Kỳ 599. Vũ Thế Dũng, nhà văn, nhà thơ, Giám đốc NXB VIPEN, Berlin, CHLB Đức 600. Đào Tấn Anh Trúc, thợ điện, Pháp 601. Phạm Cường, đạo diễn, CHLB Đức 602. Hùng C Nguyễn, khoa học gia, Sydney, Australia 603. Lương Văn Điền, Graphic Designer, TP Huế 604. Lê Văn Hưng, kỹ sư lâm nghiệp, Đắk Lắk 605. Ky Dinh Pham, cựu thẩm phán Việt Nam Cộng Hoà, Australia 606. Lê Hữu Chính, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, Toronto, Canada 607. Vũ Công Giao, giảng viên đại học, Hà Nội 608. Mai Tiến Dũng, doanh nhân, T PHCM 609. Nguyễn Huy Tưởng, luật sư, Bình Dương 610. Lê Vĩnh Trương, nghề nghiệp vận tải tổng hợp, TP HCM 611. Bùi Đình Sệnh, công dân Việt Nam, Từ Liêm, Hà Nội 612. Trần Văn Lương, nghề tự do, Chương Mỹ, Hà Nội 613. Đỗ Quang Tuyến, kỹ sư, Seattle, Washington, Hoa Kỳ 614. Nguyễn Tấn Thành, doanh nhân, Nha Trang 615. Randy Vu, Los Angeles, Hoa Kỳ 616. Ken Nguyễn, thầu khoán (contractor), San Jose, California, Hoa Kỳ 617. Nguyễn Long Giang, kỹ sư đô thị, TP Vinh, Nghệ An 618. Phan Văn Thanh, đã nghỉ hưu, Hà Nội 619. Hồ Sỹ Lâm, kỹ sư xây dựng, Nghệ An 620. Phung Truong, cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, Hoa Kỳ 621. Nguyễn Thanh Nga, MBA, Hà Nội 622. Lê Hà Phú, kỹ sư lâm nghiệp, Hà Đông, Hà Nội 623. Nguyễn Dương, công nhân, Orlando, Florida, Hoa Kỳ  
......

Đức quốc: Thánh Lễ cầu nguyện hiệp thông với giáo xứ Mỹ Yên tại Halstenbek

Dù phải vượt qua khá nhiều thử thách, dù cũng phải "đi tị nạn", cuối cùng Thánh Lễ cầu nguyện cho những giáo dân nạn nhân của giáo xứ Mỹ Yên thuộc xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc, giáo phận Vinh cũng đã được tổ chức vào lúc 16 giờ 30, ngày thứ Bảy 21.09.2013 tại nhà thờ Herz-Jesu, Halstenbek, (gần Hamburg), miền Bắc nước Đức. Linh mục Vincent Maria Phạm Cao Quý đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện đúng nghi lễ Công Giáo với bài giảng, cầu nguyện, thánh ca, bánh thánh, đọc lời Chúa, .... Thánh Lễ trang nghiêm, đầy đủ nghi thức đã gây ấn tượng sâu đậm trong lòng bà thư ký người Đức trợ giúp Cha Quý làm lễ, bà cho biết như thế. Để giáo dân hiểu rõ lý do và ý nghĩa của Thánh Lễ này, Cha Quý đã sơ lược bối cảnh sự kiện của giáo xứ Mỹ Yên trong mấy tháng qua. Cha giải thích, sự lộng quyền, đàn áp giáo dân của nhà cầm quyền Nghệ An đã diễn ra như thế nào khiến Đức Giám mục giáo phận Vinh, Phaolô Nguyễn Thái Hợp, phải lên tiếng tố cáo cách hành xử bất nhân và tàn bạo của nhà câm quyền Nghệ An khiến hơn 30 giáo dân bị trọng thương và phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Giọt nước làm tràn ly này đã tạo nên một làn sóng phẫn nộ chẳng những trong nước mà còn lan ra hải ngoại. Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã viết thư hiệp thông với toàn thể giáo phận Vinh. Đặc biệt, các Giám mục và Linh mục đoàn giáo phận Vinh, đại diện hơn nửa triệu giáo dân trong ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã phổ biến Tuyên bố hiệp thông với Mỹ Yên và "lên án bạo quyền và bảo vệ dân lành". Tuyên bố mạnh mẽ, có tính cách lịch sử này đã mang chữ ký của Các Đức Giám mục và 199 linh mục của giáo phận Vinh. Cha Quý đã nhắc lại lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô không đầy một tuần trước đó, đã lên tiếng khuyến khích giáo dân tham gia vào các hoạt động chính trị với mục đích làm cho xã hội tốt đẹp hơn thay vì xa lánh hai từ "chính trị". Đặc biệt, chị Hải đã đọc những lời cầu nguyện thật cảm động, được viết lên bởi chính những thân nhân của các nạn nhân, được gửi đến từ giáo xứ Mỹ Yên đang bị bạo quyền bức hại nặng nề. Trước khi kết thúc Thánh Lễ, những ngọn nến hiệp thông đã được thắp lên trong âm vang bài "Kinh hòa bình". Cha Quý đã cám ơn từng người giúp cho buổi lễ được diễn ra tốt đẹp. Sau cùng, mọi người đã gặp nhau trong một quán ăn nhỏ trong bầu không khí thật thân mật và ấm cúng như trong tình một gia đình.  
......

San José hiệp thông cầu nguyện với Mỹ Yên

SAN JOSÉ, California - Tình trạng đàn áp tôn giáo tại Việt Nam với vụ nhà cầm quyền tấn công thô bạo gần đây tại Giáo Xứ Mỹ Yên, Giáo Phận Vinh, đã khiến đông đảo tín hữu tại giáo phận San Jose, và các nơi lân cận thuộc vùng Bắc Cali, qui tụ trong một thánh lễ và thắp nến cầu nguyện hiệp thông vào tối ngày 20 tháng 9, 2013 tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, San Jose. Buổi lễ long trọng được Hội Ái Hữu Địa Phận Vinh Bắc Cali, phối hợp với các hội đoàn bạn tại địa phương, tổ chức. Linh Mục Phaolô Lưu Đình Dương, tuyên úy của Hội, đã chủ trì thánh lễ và cuộc đốt nến, cùng với 7 linh mục và phó tế hiện diện. Mở đầu thánh lễ, Linh Mục Giuse Nguyễn Văn Thư, Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam San Jose, nói, "Trước thảm cảnh đàn áp đang xảy ra tại Giáo Xứ Mỹ Yên, Giáo Phận Vinh, không ai trong chúng ta không đau buồn; và để bày tỏ tình yêu thương, sự hiệp thông, chúng ta cùng đốt nến cầu nguyện cho những người anh em đang bị bách hại". Sau cuộc lễ là buổi nói chuyện hơn một tiếng rưỡi đồng hồ về tình hình nhà cầm quyền Nghệ An đàn áp giáo xứ Mỹ Yên, giáo phận Vinh, do Linh Mục Phêrô Nguyễn Văn Khải, Dòng Chúa Cứu Thế, trình bày. Trong bài giảng thánh lễ, linh mục chủ tế Lưu Đình Dương, nói, "Trước các thảm cảnh đang xảy ra tại giáo phận Vinh, khi anh chị em đang bị đàn áp nặng nề, chúng ta dâng lời cầu nguyện trong tinh thần hiệp thông, chia sẻ ưu tư lo lắng của các vị chủ chăn, cũng như cầu xin cho anh chị em được vững mạnh trong đức tin, sống trung kiên trong cảnh gian truân, kiên cường xử sự như những chứng nhân của Tin Mừng". Mở đầu cuộc đốt nến, sinh viên Nguyễn Văn Thống đã tuyên đọc một bản tường trình sự việc đã xảy ra tại Giáo Xứ Mỹ Yên. Anh nói, "Nhiều năm qua, nhà cầm quyền mưu toan nhiều cách để gây khó khăn trong việc sinh hoạt của giáo xứ Mỹ Yên, nơi có linh địa Trại Gáo với đền kính Thánh Antôn nổi tiếng. Ngày 22/5/13, một nhóm thanh niên, về sau bị phát hiện là công an chìm, đến ngăn cản một cộng đoàn hành hương đến linh địa, khiến xô xát đã xảy ra và đông đảo dân chúng đã tạm giữ họ. "Công An huyện Nghi Lộc và tỉnh Nghệ An sau đó đã liên lạc với Tòa Giám Mục Xã Đoài để xin can thiệp nhằm bảo đảm cho nhóm công an ra về an toàn. Tuy nhiên, những ngày sau nhà cầm quyền trở mặt, uy hiếp tinh thần giáo dân, triệu tập nhiều người lên đồn công an tra hỏi, đồng thời bắt cóc hai giáo dân là ông Ngô Văn Khởi và anh Nguyễn Văn Hải tống giam. "Trước sự bắt bớ bất công và phi pháp, ngày 3/9/13, khoảng 1000 giáo dân đã tập trung trước ủy ban nhân dân Xã Nghi Phương để yêu cầu trả tự do cho hai người đồng đạo bị bắt giữ, và buổi chiều cùng ngày nhà cầm quyền đã viết cam kết sẽ trao trả người vào hôm sau. "Tuy nhiên, đúng ngày 4/9, khi đông đảo giáo dân đến cơ quan để nhận lại người thân, nhà cầm quyền đã bày binh bố trận, đem hàng ngàn công an cảnh sát với chó nghiệp vụ, dùi cui roi điện để đàn áp. Nhiều quần chúng lạ mặt trà trộn vào giáo dân để ném đá gây xáo trộn nhằm tạo cớ cho lực lượng công an đàn áp thô bạo. "Vụ đàn áp của nhà cầm quyền với giáo xứ Mỹ Yên đã làm cho khoảng 100 giáo dân bị thương, trong đó có 30 người bị thương nặng, có người bị vỡ sọ". "Thật đau thương khi máu của giáo dân lại tiếp tục đổ xuống". Những ngày sau vụ việc, các cơ quan tryền thông báo đài của nhà cầm quyền Nghệ An đã bóp méo sự thật, trâng tráo vu khống và cáo buộc giáo dân, cũng như lên án Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, giới lãnh đạo và các linh mục giáo phận, cũng như truy tố hình sự các tín hữu vô tội. Cuộc đốt nến nằm trong tinh thần đáp lời kêu gọi của Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, giám mục Giáo Phận Vinh, nhằm bày tỏ tình hiệp thông và liên đới với các tín hữu nạn nhân, cũng như tố cáo hành vi vu cáo và hành xử bất nhân của nhà cầm quyền cọng sản trước dư luận. Trong từng lời nguyện của cuộc đốt nến, các lời ca tha thiết đã được cất lên: "Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam, nhiều ai oán bất công lan tràn. Mẹ hãy giơ tay ban phúc bình an, cho Việt Nam qua phút nguy nan".- Nguồn: vietcatholic.net
......

Liên Hiệp Truyền Thông CGVN lên án nhà cầm quyền đàn áp giáo dân Gx. Mỹ Yên

Thông cáo báo chí của Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam về việc cộng sản tấn công giáo dân Giáo Xứ Mỹ Yên THÔNG CÁO BÁO CHÍ FOR IMMEDIATE RELEASE.Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam Liên Lạc: Lm. Paul Van Chi Chupaulvanchi@yahoo.com Tel: (02) 9773 0933 Mob: 0410 552 650 Sydney ngày 7 tháng 9 năm 2013 - Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam nhận được Thông Cáo của Tòa Giám Mục Xã Đoài Giáo Phận Vinh ngày 5 tháng 9 năm 2013 về sự kiện "Chính quyền Nghệ An tổ chức dùng vũ lực trấn áp giáo dân." Đồng thời, chúng tôi cũng nhận được Thư Chung của Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục Giáo Phận Vinh, gửi ngày 6 tháng 9 năm 2013. Thông Cáo của Giáo Phận Vinh và Thư Chung của Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp đều lên tiếng "cực lực lên án cách ứng xử bất nhân và những hành vi bạo lực dã man của cơ quan công quyền tỉnh Nghệ An dùng bạo lực đàn áp quần chúng nhân dân," vào buổi chiều ngày 4.9.2013 tại Giáo Xứ Mỹ Yên thuộc xã Nghi Phương huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thông Cáo và Thư Chung đã ghi rõ sự đàn áp bất nhân và dã man này, khi người nhà của ông Phêrô Ngô Văn Khởi và Antôn Nguyễn Văn Hải cùng nhiều bà con giáo dân thuộc Giáo Xứ Mỹ Yên tới UBND xã Nghi Phương để nhận 2 ông về nhà theo Giấy cam kết của nhà cầm quyền. Nhưng ngược lại, nhà cầm quyền đã bày binh bố trận với hàng trăm công an, cảnh sát cơ động, dân quân tự vệ, chó nghiệp vụ, và lựu đan cay... tấn công dã man. Nhiều người ngất xỉu và những người còn lại hoảng loạn bỏ chạy tứ tung. Lực lượng công quyền còn phá cửa, xông vào nhà, đập phá đồ đạc, tấn công những người trốn chạy vào những ngôi nhà đối diện với trụ sở UBND xã, và hành hung bắt cả chủ nhà... Nghiêm trọng hơn nữa, họ đã đập vỡ và xúc phạm tượng thánh tại tư gia anh Antôn Nguyễn Văn Văn. Đây là hành vi phạm thánh trắng trợn, xúc phạm nặng nề niềm tin tôn giáo. Hậu quả thê thảm này theo Thông Cáo và Thư Chung đã gây thương tích cho ít nhất 30 người, trong đó có cả phụ nữ và thiếu niên. Một số nạn nhân còn trong tình trạng nguy kịch đến tính mạng. Tòa Giám Mục đã lo lắng để các nạn nhân được điều trị và chăm sóc tại Bệnh viện Đa khoa Xã Đoài, Bệnh viện 115, Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An... Thông Cáo của Tòa Giám Mục Giáo Phận Vinh gồm 3 điểm: Điểm thứ nhất nhấn mạnh chính quyền đưa hàng trăm công an, cảnh sát cơ động, dân quân tự vệ và côn đồ, cùng với vũ khí và chó nghiệp vụ gây hỗn loạn, đánh đập dã man giáo dân, vào nhà dân đập tượng tôn giáo. Điểm thứ hai TGM Vinh lên án hành động sai trái của chính quyền Nghệ An. Điểm thứ ba là kêu gọi những người yêu chuộng công lý và hòa bình hiệp thông cầu nguyện cho các nạn nhân và lên tiếng bảo vệ giáo dân. Hơn thế nữa, trước tình cảnh đau thương này, Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp kêu gọi: "Cùng với Thông cáo của Tòa Giám mục Xã Ðoài, tôi cực lực lên án cách ứng xử bất nhân và những hành vi bạo lực dã man của cơ quan công quyền. Ðồng thời, tôi tha thiết mời gọi anh chị em cầu nguyện, dâng những hy sinh cũng như có những hành động cụ thể biểu lộ sự hiệp thông với giáo xứ Mỹ Yên và tình liên đới với các nạn nhân của bạo lực”. Đứng trước sự kiện đau thương và sự kiện tấn công dã man tại Giáo Xứ Mỹ Yên, cũng như lời kêu gọi của Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp và Tòa Giám Mục Giáo Phận Vinh, Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam cực lực phản đối trước cộng đồng thế giới và quý Cộng Đồng Việt Nam trong nước và hải ngoại, đồng thời, nghiêm khắc lên án việc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tiếp tục dùng hệ thống Công An, Cảnh Sát và côn đồ do nhà cầm quyền điều động như công cụ để đàn áp và tấn Công Giáo dân Giáo Xứ Mỹ Yên, Tỉnh Nghệ An, Giáo Phận Vinh. Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam xin cùng Hiệp Thông, Cầu Nguyện, và chia sẻ với Giáo Xứ Mỹ Yên và Giáo Phận Vinh, đồng thời, nghiêm khắc lên án và tố cáo trước dư luận quốc tế những hành vi đàn áp, tấn công, hành hung, và xúc phạm niềm tin Công Giáo tại Giáo Xứ Mỹ Yên. Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam: 1) Chấm dứt ngay lập tức những hành động đàn áp, tấn công, hành hung, xúc phạm niềm tin Công Giáo tại Giáo Xứ Mỹ Yên và trên toàn quốc Việt Nam. 2) Chấm dứt việc đàn áp Giáo Hội Công Giáo và quý Tôn Giáo bạn. Bảo đảm an ninh cho các nơi thờ tự của tất cả quý Tôn Giáo. 3) Nghiêm chỉnh tôn trọng luật pháp do chính nhà cầm quyền Việt Nam ban hành và trả lại tất cả tài sản đã chiếm đoạt của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và của quý Tôn Giáo bạn. 4) Tuyệt đối tôn trọng Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo theo như bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc khẳng định. Trong niềm tin vào Thiên Chúa, chúng tôi tha thiết mời gọi những trái tim Việt Nam cùng đoàn kết để hiệp thông, chia sẻ, và đồng hành với Giáo Xứ Mỹ Yên và Giáo Phận Vinh nói riêng, cùng toàn thể Dân Tộc Việt Nam nói chung trong hoàn cảnh bi thương này. Chúng tôi tha thiết kêu gọi Quý Quốc Hội, Quý Chính Phủ, Quý Đảng Phái Chính Trị các quốc gia, Quý Tổ Chức Nhân Quyền, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, Quý Ủy Ban Nhân Quyền Quốc Tế, các tổ chức thường quan tâm đến Tự Do và Nhân Quyền cho Việt Nam, cùng Quý Cơ Quan Truyền Thông Thế Giới và Quý Cơ Quan Truyền Thông Việt Nam trên toàn thế giới, cùng đồng hành đấu tranh cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam. Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam. Liên hệ: Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài Giám Đốc Radio VERITAS Asia Buick St. North Fairview, Quezon City, Philippines P.O. Box 2642 Lm. Gioan Trần Công Nghị Giám Đốc Thông Tấn Xã Công Giáo VietCatholic P.O. Box 735, Avalon, CA 90704 Lm. Joachim Nguyễn Đức Việt Châu Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu PO Box 1419 Gretna, LA 70053-5440, USA. Lm. Antôn Nguyễn Hữu Quảng Phó Giám Đốc Thông Tấn Xã Công Giáo VietCatholic Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu 715 Sydney Rd. Brunswick Vic 3056 Australia Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Âu Châu Magazine Catholique Katholische Monatszeitschrift Lm. Paul Chu Văn Chi Phó Giám Đốc Thông Tấn Xã Công Giáo VietCatholic 92 The River Rd - Revesby NSW 2212 Australia Nguồn: Vietcatholic.com
......

Lễ cầu nguyện cho tù nhân lương tâm tại Hamburg

Một buổi lễ cầu nguyện cho Tù Nhân Lương Tâm được tổ chức vào lúc 13:30 giờ hôm nay ngày 08.09.2013 tại nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời Mariä Himmelfahrt ở quận Rahlstedt, Hamburg, thể theo ước nguyện của những người tù nhân yêu nước do anh Nguyễn Xuân Anh, một trong 17 thanh niên Công Giáo và Tin Lành vừa mãn hạn tù sau hai năm tù oan sai, mang ra từ nhà tù. Linh mục Vincent Maria Phạm Cao Quý Linh mục Vincent Maria Phạm Cao Quý đã dâng lễ cầu nguyện, tuy không phải là Thánh Lễ như mong ước của ban tổ chức, nhưng không kém phần nghiêm trang, súc tích và cảm động. Lễ cầu nguyện cũng đã hướng về Syria theo lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng. Trong bài giảng, cha Quý đã nhắc đến sự kiện nóng bỏng từ Mỹ Yên, Nghệ An, nơi 30 giáo dân tay không đã bị côn an đánh trọng thương phải vào bệnh viện điều trị. Cha đã không quên cầu nguyện hiệp thông với giáo xứ đang bị bách hại nặng nề bởi nhà cầm quyền địa phương này. Cha Quý cũng trích một phần lá thư chung của Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã lên án hành động đàn áp bằng bạo lực đối với giáo dân một cách bất nhân, dã man. Điểm đặc biệt hôm nay là có nối Skype với Nguyễn Xuân Anh và hai thân nhân khác của những TNYNước. 3 người đã nhìn thấy quang cảnh buổi lễ và được nghe trực tiếp lời giới thiệu của nhóm "Bạn của Đặng Xuân Diệu, lời giảng, các bài thánh ca, lời Chúa, ... 3 thanh niên này cũng đã thay mặt gia đình để đọc 5 lời nguyện của 5 gia đình Nguyễn Xuân Anh, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Đình Cương, Đậu Văn Dương và Trần Hữu Đức. Một mạnh thường quân hỗ trợ một gia đình thanh niên Công Giáo đã skype tại chỗ với người mình giúp đỡ. Cuối buổi lễ, Nguyễn Xuân Anh đã lên tiếng cám ơn cha Phạm Cao Quý, các giáo dân và người dự lễ đã tổ chức buổi lễ rất có ý nghĩa đối với người trong nước. Nói chung, buổi lễ đã thành công. Trừ vài lúc âm thanh nghe không được rõ, cha Quý và mọi tham dự viên đã tỏ ra mãn nguyện với buổi lễ. Một số cụ cao niên trước khi về đã đến bắt tay cám ơn ban tổ chức đã cho họ cơ hội tham dự một buổi lễ có ý nghĩa và cảm động. Xin mời xem một số hình ảnh của buổi lễ:        
......

Giấc Mơ Việt Nam

Nhạc sĩ Trần Tiến có một bài nhạc viết về đời sống của dân tộc Raglai và cây đàn chapi rất dễ thương. Ông bảo ở cái miền đồi núi ấy không có mùa đông, không có nắng mưa, chỉ có một mùa yêu nhau. Ở nơi ấy có đàn dê trắng nhởn nhơ, có mái nhà sàn, dù ai nghèo lắm cũng có cây đàn chapi. Và ai yêu tự do, yêu rừng xanh thì lên núi mà nghe người Raglai gảy đàn. Nhạc sĩ Trần Tiến gọi tên ca khúc này là “Giấc mơ chapi”. Nhạc sĩ Trần Tiến Ai nghe bài hát này mà không muốn được sống như người Raglai, không muốn được mơ giấc mơ chapi !? Có lẽ cuộc đời thường không như là mộng, nên con người ngủ thường hay nằm mơ và hay kể về giấc mơ của mình. Tuy nhiên, các khoa học gia lại bảo động vật cũng nằm mơ và đặc biệt là loài chim cũng ngủ mơ. Có những giấc mơ của con người đã làm biến đổi cả lịch sử thế giới, như giấc mơ của Hán Minh Đế đã giúp Phật giáo được truyền vào Trung Quốc. Và Hoàng đế Constantinus I Đại Đế đã giúp cho Ki-tô giáo được phát triển ở La Mã cũng chỉ sau một giấc mơ. Nhưng đó là giấc mơ của những vị Đại đế đầy quyền năng, đối với người bình thường, thực hiện giấc mơ của riêng mình còn dễ đạt được, thực hiện giấc mơ cho tha nhân thường có cái giá không nhỏ. Ngày 28 tháng 8 vừa qua, Tổng thống Obama và dân Mỹ đã làm lễ tưởng niệm 50 năm ngày mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn bất hủ “Tôi có một giấc mơ”. Bài diễn văn lịch sử này đã trở thành động lực cho sự ra đời của nhiều điều luật nhân quyền sau này. Martin Luther King Hôm đó đúng vào ngày 28/8/63 giữa một đám đông gồm 250 ngàn người đổ về từ khắp nơi, Martin Luther King đã đọc lời diễn từ: “Rồi có một ngày trên những ngọn đồi đất đỏ của Georgia, con của nô lệ và con của chủ nô sẽ ngồi lại cùng nhau bên bàn ăn của tình huynh đệ. rồi có một ngày vùng đất hoang mạc Mississippi, bức bối vì hơi nóng của bất công và áp bức, sẽ chuyển mình để trở thành ốc đảo của tự do và công bằng. Tôi đã mơ giấc mơ này…” Lúc đó Martin Luther King còn rất trẻ, ông bị ám sát vào ngày 4/4/68 khi đang đứng trên ban công của một khách sạn để chuẩn bị dẫn đầu một cuộc tuần hành. Ông bị bắn vào hàm, và một người bạn của ông có mặt lúc ấy đã thuật lại rằng, ông đã nói lời sau cùng với nhạc sĩ Ben Branch người được sắp xếp có màn trình diễn vào đêm hôm ấy: “Này Ben, hãy hứa với tôi là đêm nay anh sẽ chơi bài Take My Hand, Precios Lord và phải chơi thật hay.” Câu chuyện của vị mục sư trẻ vào những giây phút cuối đời và lời bài hát này làm tôi nhớ đến câu chuyện của cô bé gái 17 tuổi và người anh lớn vô tình cô được quen biết. Bài hát có những câu tôi nhớ loáng thoáng: khi bóng tối xuất hiện và đêm đến gần, khi ngày đã ra đi, đã trở thành quá khứ, hãy nắm lấy tay tôi, hãy hướng dẫn bàn chân tôi.              Anh hùng  Trần Văn Bá Cô bé đó tên là Yến và người anh lớn của cô là anh Lê Quốc Quân một chiến hữu của anh Trần Văn Bá. Khi cộng sản chiếm miền Nam, Yến đang là học sinh trường Gia Long. Cha và các anh trai của cô đều bị đi "tù cải tạo". Yến rất buồn, những giờ học chính trị của lớp, Yến chán nản thường hay trốn ra ngoài ngồi nhìn qua sân tennis. Ở đây cô được gặp anh Lê Quốc Quân, như một người anh, anh đã an ủi và hướng dẫn tinh thần cô. Đến bây giờ cô vẫn nhớ mãi câu nói của anh: “Em đừng lo, lúc này nước đang ở trong chai thì nó phải mang hình chai, rồi có lúc nước sẽ trở thành đại dương.” Ngày anh bị xử bắn cùng anh Trần Văn Bá, cô đạp xe vòng quanh thành phố trong mưa và mặc cho nước mắt rơi. Giờ đây, cô bé 17 tuổi vẫn mang theo giấc mơ của người anh lớn ngày nào, và cô hoạt động tích cực trong những công tác của cộng đồng. Những giấc mơ lớn luôn cần sự góp tay của rất nhiều người. Hoa Kỳ là một quốc gia đi đầu về những giá trị về tự do và nhân quyền. Nhưng để có được những giá trị đó ngày hôm nay, đã có rất nhiều người Mỹ chịu hy sinh cho những giá trị cao quý đó. Đến nỗi nhà thơ Allen Ginsberg đã phải kêu lên: “Nước Mỹ, tại sao tự do của ngươi lại tràn đầy nước mắt!” Cũng đúng vào cái ngày mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn “Tôi có một giấc mơ”, hai mươi bốn năm sau, ngày 28/08/87 đã có những người con Việt Nam âm thầm ngã xuống cho tự do của quê hương họ. Nơi những người Kháng chiến quân này nằm lại chỉ còn cách biên giới đất mẹ vào khoảng 20 cây số. Đó là Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và những chiến hữu của ông - những con người yêu nước hơn xa mạng sống của chính mình - trên con đường Đông Tiến.          Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh Đó là một mùa thu ảm đạm, đau thương nhất cho những người trong cuộc! Những người còn lại đã vuốt mắt cho các chiến hữu của họ bằng sự son sắt nối tiếp con đường gian nan. Chắc chắn đã có nhiều tiếng thở dài xen lẫn đắng cay nhưng con đường vẫn tiếp nối. Bởi chưa có con đường nào dẫn tới sự tươi đẹp cho cả một dân tộc lại được trải đầy hoa. Có nhiều người Mỹ gốc Việt đã tham dự ngày tưởng niệm Martin Luther King trong ngày ông đọc bài diễn văn “Tôi có một giấc mơ”, nhưng ít ai biết về giấc mơ của những người lính đã nằm lại nơi biên giới Thái Lan ngày hôm ấy. Anh Nguyễn Trọng Hùng, một chiến hữu sát cánh bên cạnh Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh đã viết về giấc mơ của anh trong một lá thư gởi về cho con: “Bố đi cứu nước và đợi ngày các con thành tài hồi hương kiến quốc. Có như thế bố con chúng mình mới kiêu hãnh ngẩng mặt dưới ánh sáng mặt trời nhận mình là giống dân Hồng Lạc.” Tôi yêu giấc mơ của Martin Luther King và tôi yêu giấc mơ của những người kháng chiến quân này. Những người tha thiết với giấc mơ của mình cho đến tận những giây phút cuối của cuộc đời! Ngay cả đến những giây phút cận kề với cái chết, Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh vẫn thiết tha yêu cuộc sống. Tôi còn nhớ ông đã viết một câu trong bút ký của ông khi còn là một thiếu uý trẻ: “chỉ có người lính mới không sợ chết, và cũng chính người lính mới biết sự sống đáng quý đến dường nào.” Xin được cúi đầu tạ ơn những người lính Việt Nam, những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Ngô Chí Dũng, Vũ Đình Khoa, Trương Ngọc Ni, Trần Hướng Việt… Các anh đã trao tặng cái quý giá nhất của mình để thực hiện cho bằng được giấc mơ của biết bao con dân Việt Nam. Tưởng nhớ đến các anh, chúng tôi xin nguyện cùng đồng hành, cùng chia chung ước mơ với các anh Điếu Cày, Vi Đức Hồi, Lê Quốc Quân, Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang, Nguyên Kha, Phương Uyên, 17 thanh niên yêu nước... và rất nhiều anh chị em khác đang cọ xát với gian nan và hiểm nguy bên ngoài song sắt của lao tù. Tạ ơn các anh. Xin các anh yên nghỉ. Giấc mơ Việt Nam đang được thực hiện bởi rất nhiều, rất nhiều những người trẻ hôm nay. GHI CHÚ: Lễ Tưởng Niệm Cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Anh Hùng Đông Tiến vào Chủ Nhật 8-9-2013, từ 10:30 giờ sáng đến 2 giờ trưa tại Westminster Rose Center, 14140 All American Way, Westminster, CA 92683. Nguồn: http://vietbao.com
......

Trần Trung Đạo: Bài thơ cho Đỗ Thị Minh Hạnh

Em ra đời Mười năm sau cuộc chiến Bom đạn đã thôi rơi, sao tiếng khóc chưa ngừng Câu hát hòa bình, sao nước mắt rưng rưng Từng đoàn người vẫn lần lượt ra đi Xuống biển, lên non, băng rừng, vượt suối Tự do ! tự do ! Dù đổi bằng mạng sống Dù phải chết ở quê người hơn ở lại quê hương. Tuổi thơ em Được nuôi bằng những giọt tình thương Mẹ vắt ra từ bầu sữa cạn Bằng giọt mồ hôi cha trong sớm chiều lận đận Cõng cuộc đời trên chiếc lưng cong. Những nỗi nhọc nhằn đã làm em khôn lớn thêm nhanh Để biết thương yêu đồng bào lao động Để biết lắng nghe tiếng thở dài của núi sông và lời thì thầm của tình yêu mơ mộng Để biết mỉm cười trong cả lúc khổ đau. Đất nước mình không có hôm nay Nếu hai ngàn năm trước không có bà Trưng, bà Triệu Và sẽ tiếp tục sống trong độc tài nô lệ Nếu không có những người con gái như em Dòng sông dài và phiến đá chông chênh Nhưng nếu tất cả đều co ro, sợ hãi Nếu tất cả đều đứng nhìn, e ngại Dân tộc này rồi sẽ ra sao? Em bước vào tù khi tuổi mới hai mươi Tuổi đẹp nhất của thời con gái Bên ngoài trại giam, mùa xuân đang qua và không trở lại Nhưng trong trái tim em, xuân mãi mãi không tàn Hạnh phúc của em là hạnh phúc của dân oan Của những con người không có quyền được nói Niềm vui của em là niềm vui của đàn em thơ mới lớn Của những mái đầu bị xóa mất màu xanh. Đảng xô em vào vũng bùn đen lọc lừa, giả dối, gian manh Em lọc ra những giọt nước ngọt ngào, tinh khiết Đảng trồng trong nhận thức em cây hận thù chém giết Em chăm sóc cây để trổ trái tình người Đảng đốt cuộc đời em bằng ngọn lửa bạo tàn rực đỏ khắp nơi Em thổi tắt để thành nguồn sưởi ấm Đảng biến em làm con sâu đo uốn mình quanh bốn vòng cửa cấm Em thoát thân thành cánh bướm vàng. Hôm nay Lịch sử đang chờ em để bước sang trang Dân tộc vịn vai em để đi cùng nhân loại Những người chết đang bắt đầu sống lại Những người đi đang lần lượt quay về. Giữa quê người còn một bài thơ Viết cho em bằng những dòng hy vọng Đừng gục xuống, đừng than thân trách phận Hãy mỉm cười như một chuyến đi xa Mẹ sẽ chờ em dù năm tháng trôi qua Sông núi chờ em trong ngày hội lớn. Những uất hận ngày nào chảy theo dòng sông Hát Đang trở thành những lớp phù sa. Trần Trung Đạo Nguồn: trantrungdao.com
......

Việt Nam Cần một xả hội dân sự mạnh chống TQ.

Luật gia Lê Hiếu Đằng: “Một xã hội dân sự mạnh mới mong huy động được sức mạnh của toàn thể dân tộc để chống lại bành trướng Bắc Kinh” (Trả lời phỏng vấn BVN) Trong căn buồng chật chội ông đang nằm chống chọi với căn bệnh ác tính tại nhà riêng, Lê Hiếu Đằng (LHĐ) gượng ngồi lên tiếp chúng tôi. Xanh, gầy, hai chân hơi phù, bàn tay đưa ra mềm và không có được hơi ấm nóng, ông nói nhỏ, chầm chậm. Rõ ràng ông đang rất yếu. Nhưng khi chúng tôi ngỏ ý muốn phỏng vấn để ông nói rõ thêm những ý tưởng của mình sau bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh ông đã gửi gắm trên BVN, mắt ông sáng hẳn lên, giọng nói bỗng khoẻ lên và ngày càng mạnh mẽ. So với ngày ông tiếp chuyện BVN lần đầu tiên cách đây gần ba năm để rồi cho ra đời hai bài viết đầu tiên của ông trên thế giới mạng “lề trái” (Dân chủ là giải pháp cho các vấn đề của đất nước,…), ý kiến của ông về con đường dân chủ hoá giờ đây thật dứt khoát, triệt để, rõ ràng. Nhưng hôm nay câu chuyện của chúng tôi có lúc trầm xuống, ông nghẹn ngào, mắt ứa lệ khi nói đến việc lý tưởng Cách mạng bị phản bội, nhân dân đau khổ triền miên. Vận nước đã đến hồi “bĩ cực”, không thể trì hoãn việc dân chủ hoá, xây dựng thể chế đa đảng để đất nước thoát khỏi hiểm nghèo. Bauxite Việt Nam BVN: Trong bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh mới đăng trên BVN và đang được lan truyền rộng rãi trên mạng, ông đã nói rõ quan điểm phải có thể chế đa đảng cho nước Việt Nam. Xin hỏi quan điểm ấy đã hình thành như thế nào trong ý thức tư tưởng của một người đảng viên Cộng sản trung kiên như ông? LHĐ: Thực ra đã lâu, từ khi tôi là giảng viên triết học Mác Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, tôi đã thấy chủ trương cấm đa nguyên đa đảng là không phù hợp với ngay chủ thuyết Mác. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải công nhận kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, tồn tại nhiều giai cấp với những lợi ích khác nhau, thì cơ sở hạ tầng ấy quyết định kiến trúc thượng tầng phải có đa đảng để bảo vệ quyền lợi của các nhóm xã hội khác nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương không đa nguyên đa đảng nhưng điều này chưa hề thể chế hoá thành văn bản pháp luật, quyền tự do lập hội vẫn được Hiến pháp thừa nhận tuy đã bị trì hoãn mãi không thực thi. Những điều này tôi suy nghĩ đã lâu rồi. Vấn đề là thời điểm nào thì thích hợp để nêu ra. Hiện nay, những khuynh hướng đối lập với Đảng Cộng sản đã xuất hiện, tại sao ta không có những chính đảng ra đời để khắp trong Nam ngoài Bắc, khi có những ý kiến phản đối đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản thì lập tức được đưa ra công khai? Ngay trong Đảng Cộng sản, ngày càng nhiều đảng viên muốn ra khỏi đảng hoặc đã lẳng lặng bỏ sinh hoạt đảng. Tại sao việc này lại không làm công khai? Tại sao ta không nghĩ đến việc lập ra một chính đảng, vì đó là quyền công dân được Hiến pháp bảo hộ. Còn vì sao ta nên lập một đảng xã hội dân chủ? Ta biết rằng chính “Mác già” cũng đã bỏ chủ trương chuyên chính vô sản thay bằng con đường xã hội dân chủ như đường lối của Đệ Nhị Quốc tế. Trên thế giới hiện nay, dân chủ xã hội là trào lưu mạnh mẽ, là xu hướng tiến bộ nhất. Đi theo con đường này, ta có chỗ dựa vững chắc ở bạn bè quốc tế. Ta cũng đã từng có hai đảng Dân chủ và Xã hội, nay cũng có thể khôi phục hai đảng này, nhưng nội dung phải hoàn toàn khác, thực chất là đối lập chứ không phải “bánh vẽ”, hình thức, chỉ là công cụ của Đảng Cộng sản như trước đây. BVN: Cũng có ý kiến cho rằng các đảng viên tốt không nên ra khỏi Đảng Cộng sản, mà phải ở lại để làm cho Đảng chuyển hoá. Ông nghĩ thế nào về ý kiến này? LHĐ: Điều đó là hy vọng đã lâu, nhưng đến nay thì tôi đánh giá là không còn khả năng. Bởi vì những người lãnh đạo cao nhất của Đảng đã không chứng tỏ được họ vì quyền lợi của đất nước. Chỉ một cái khẩu hiệu “còn Đảng, còn mình” của công an là đủ cho ta biết họ vì cái gì? Có một số vị cấp tiến như Võ Văn Kiệt muốn thay đổi, nhưng cũng bất lực và không thể thoát khỏi sự ràng buộc của Đảng. Cho nên phải có một xã hội dân sự mạnh để kiểm soát quyền lực nhà nước, mà đảng chính trị là hình thức cao nhất của xã hội dân sự. BVN: Có sự lo ngạỉ rằng: đấu tranh có tổ chức là hình thức mà chính quyền kỵ nhất, nên việc lập chính đảng sẽ bị trấn áp tàn khốc. Ông có sợ điều đó xảy ra? LHĐ: Tất nhiên sẽ có sự đàn áp, và bắt bớ là chuyện rất có khả năng xảy ra. Nhưng nếu đã là một tập thể mạnh thì sợ gì bắt bớ. Tôi có thể bị bắt, một số người đi đầu có thể bị bắt, nhưng những người còn lại sẽ tiếp tục đấu tranh, sẽ có hàng trăm, hàng ngàn người tiếp tục chiến đấu, không thể bắt hết mọi người. Thời gian vừa qua cho thấy ngày càng nhiều người dũng cảm lên tiếng, và lên tiếng ngày càng mạnh mẽ, có nhiều người mà mình không ngờ. Ngay trong Hội đồng Dân chủ & Pháp luật thuộc Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khi góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, tôi rất bất ngờ vì có những vị trưóc đây rất “hiền lành” nhưng nay lại quyết liệt đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp vì cho rằng nếu duy trì điều này thì không bao giờ có được dân chủ thật sự, Quốc hội, Hội đồng Nhân dân chỉ là công cụ để hợp thức hoá sự độc quyền của Đảng Cộng sản mà thôi. Hay vụ Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp, văn bản 72 người ký còn nêu vấn đề một cách nhẹ nhàng, nhưng khi bản Dự thảo sửa đổi lần 4 đưa ra trình Quốc hội, thì 40 người lên tiếng phản đối rất quyết liệt, đòi đa nguyên đa đảng rõ ràng. Vậy thì đừng lo chuyện bắt bớ. Riêng tôi, tôi không sợ bị bắt. Mình không thể  lùi bước khi người dân đã chịu quá nhiều đau khổ [ông nghẹn ngào một lúc rồi mới nói tiếp]…, người dân đã hy sinh quá nhiều, để rồi có một chế độ như ngày nay so với chế độ Sài Gòn còn tệ hơn. Sự hy sinh kéo dài của người dân hầu như vô ích, những mục tiêu của cuộc Cách mạng là Độc lập, Tự do đã bị phản bội. Tôi không thể chấp nhận điều đó. BVN: Còn một lập luận nữa, cho rằng lúc này phải tăng cường đoàn kết toàn dân để chống lại nguy cơ Bắc xâm, vậy việc ly khai Đảng Cộng sản có lợi hay có hại? LHĐ: Phải đoàn kết, nhưng vấn đề là đoàn kết dưới sự lãnh đạo sáng suốt của một chính đảng lấy quyền lợi của đất nước, của dân tộc, của nhân dân là lý do tồn tại duy nhất, chứ không phải vì quyền lực, vì lợi ích phe nhóm như hiện nay. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta không thể trông cậy vào ai khác ngoài sức mạnh của dân tộc. Một chính đảng đối lập chính là kháng thể để chống những căn bệnh đã trở nên bất trị do thể chế độc tài tạo nên cho xã hội, cho dân tộc. Chúng ta chỉ có thể đoàn kết với sự đối thoại công bằng, sự đồng thuận về mục tiêu, lý tưởng. BVN: Ngoài những điều đã viết đã nói ra, ông còn những điều gì muốn chia sẻ với bạn đọc BVN? LHĐ: Có hai việc bây giờ ta phải làm. Một là về tư tưởng, phải kiên quyết từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin đã quá lạc hậu. Phe gọi là Cộng sản chỉ còn Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, chưa kể Bắc Triều Tiên với thể chế quái dị không biết ta có ôm vào phe mình hay không, nếu có thì quá xấu hổ. Về công việc thực tế, bây giờ phải tập trung xây dựng xã hội dân sự mạnh, trong đó có chính đảng đối lập. Phải bắt đầu cho cuộc vận động thành lập một chính đảng mới. Một xã hội dân sự mạnh mới có thể làm áp lực để Đảng Cộng sản cầm quyền phải thay đổi theo hướng dân chủ. Như vậy mới mong huy động được sức mạnh của toàn thể dân tộc để chống lại bành trướng Bắc Kinh. BVN: Mấy ngày qua, có nhiều thư của bạn đọc trong, ngoài nước gửi tới hưởng ứng bài viết và lo lắng cho sức khoẻ của tác giả. Xin thay mặt tất cả bạn đọc của BVN cầu chúc ông vượt qua được bệnh tật hiểm nghèo để tiếp tục đóng góp cho cuộc đấu tranh dân chủ đang ở bước gian nan nhưng đường đi đã rộng mở, chắc chắn sẽ thành công. Nguồn: BoxitVN
......

Thứ trưởng Việt và phiên toà Đức, nan đề hội nhập chính trường

... một án quyết Đức ghi cả tên Thứ trưởng Việt Nam có một không hai trong lịch sử ngoại giao này, bắt nguồn từ mô hình hội đoàn giữa 2 nước Việt Nam và Đức vốn khác nhau về bản chất, nguyên lý vận hành, xuất phát từ 2 hình thái kinh tế xã hội đối lập nhau giữa các nước TBCN và XHCN trước đây... Cách 3 tháng trước, trang mạng Liên hiệp người Việt ở Đức đăng bài “Buổi gặp gỡ giao lưu của ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng bộ ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài và  BCH Liên hiệp người Việt toàn Liên bang Đức” có đoạn: “Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn đã động viên, khuyến khích mọi người tham dự buổi gặp mặt phát biểu ý kiến thẳng thắn, nêu rõ nguyên nhân và những người đã gây ra sự bất ổn cho cộng đồng để cùng nhau tháo gỡ… Tất cả các Uỷ viên BCH đã cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và cụ thể về những nguyên nhân gây ra sự bất ổn trong suốt năm qua. Bà Trịnh Thị Mùi, Chủ tịch “Hội đồng thành viên” của Liên hiệp đã luôn cản trở các hoạt động của BCH, gây rối, làm mất đoàn kết trong nội bộ và cộng đồng. Cơ sở khởi nguồn từ cấu trúc bất hợp lý trong Điều lệ Liên hiệp đó là việc thành lập ra “Hội đồng thành viên”. … Thứ trưởng chỉ  công nhận BCH mới có vai trò lãnh đạo Liên hiệp. Liên hiệp cần tiến hành sửa đổi, bổ sung Điều lệ cho hợp lý… „. Bản tin vừa đưa lên mạng lập tức dấy lên một làn sóng bức xúc, bất bình sôi sục cộng đồng; chỉ trong vòng 10 ngày, bài “thư ngỏ gửi Chủ tịch Liên hiệp” của Mạnh Thái lên tiếng phản đối, đăng trên trang mạng nguoiviet.de, đã có ngót 200 bình luận. Bởi Liên hiệp đã vi phạm Điều §9 Hiến pháp Đức: „ (1) Tất cả người Đức có quyền thành lập hội đoàn. (2) Cấm những hiệp hội mà tôn chỉ mục đích, hoặc hoạt động vi phạm luật hình sự hoặc chống lại nền tảng của một xã hội dân chủ hoặc chia rẽ, chống lại sự giao lưu hiểu biết lẫn nhau giữa các nhóm, giai tầng, dân tộc“. Điều khoản này có 3 điểm quan trọng: 1- Hiệp hội sinh ra để đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau, chứ không phải tạo phe nhóm chống nhau, hay chống bất cứ cá nhân nào. 2- Chỉ áp dụng cho người Đức tức quyền công dân, không phải quyền con người áp dụng cho cả  người nước ngoài sống ở Đức. Lẽ dĩ nhiên, người nước ngoài không vì thế bị cấm lập hội, mà chỉ có nghĩa vị thế pháp lý hội đoàn họ khác người Đức ở chỗ, người Đức có quyền buộc nhà nước tạo mọi điều kiện luật định để thực hiện quyền đó, nếu không họ sẽ viện tới toà án chế tài cơ quan nhà nước liên quan, còn người nước ngoài thì không. 3- Những hiệp hội bị cấm không chỉ do sai tôn chỉ mục đích thường được thể hiện ở Điều lệ mà chính bởi những hoạt động hàng ngày vi phạm luật hình sự, như tụ tập, hội họp, ra nghị quyết, tuyên truyền gây thiệt hại cho nạn nhân, vu khống, lăng mạ, bài xích, kích động, chia rẽ…  Đầu năm nay, Toà án Hành chính ở Kassel, Đức, với án số 8 C 2134/11 đã cấm hiệp hội Hell Angels MC Charter Westend hoạt động. Trước nữa, tháng 12.2012, Hiệp hội HNG bị cấm, kháng kiện phúc thẩm lên toà án Hành chính Liên bang cũng bị y án. BCH Liên hiệp trong buổi gặp gỡ này quy chiếu theo Điều §9 Hiến Pháp Đức cho thấy: 1- Buổi gặp gỡ là 1 hoạt động của Liên hiệp; Liên hiệp phải chịu trách nhiệm. 2- Hội đoàn Đức không được phép tham gia chính trị, nhưng Liên hiệp đã vi phạm, “cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và cụ thể về những nguyên nhân gây ra sự bất ổn trong suốt năm qua”, cho Thứ trưởng “để cùng nhau tháo gỡ”. 3- Cuộc họp lại nhằm vào cá nhân, “tìm kiếm những người gây ra bất ổn cho cộng đồng”. Hội đoàn sinh ra để làm công việc thiện, chứ không phải để nhắm vào cá nhân con người. Ngay biểu tình dù rất tự do ở Đức nhưng sẽ bị giải tán, phạt hình sự người tổ chức, nếu hô khẩu hiệu hay mang biểu ngữ có tên cá nhân để chống họ, bất kể họ là ai. Chưa nói, nếu có gây bất ổn cộng đồng thật, thì đó là chức năng hiến định của cảnh sát Đức phải giải quyết, không liên quan tới bất kỳ hiệp hội nào, hay nhà chức trách nước ngoài nào. 4- BCH cũng như HĐTV do đại hội bầu không liên quan gì tới nhà nước nào cả, nhưng lại ra tuyên bố chỉ BCH mới được Thứ trưởng Việt Nam công nhận có vai trò lãnh đạo, loại bỏ chức năng tương đương của Hội đồng thành viên vốn được luật Đức thừa nhận. 5- Với danh nghĩa Liên hiệp, cùng hình thức tổ chức cuộc họp BCH, ra thông báo, kèm những câu vu khống, xúc phạm cá nhân trên phương tiện truyền thông, ảnh hưởng tới uy tín và nghề nghiệp của họ; rõ ràng tổ chức liên hiệp trong trường hợp cụ thể này đã được dùng làm phương tiện chống lại cá nhân, vi phạm luật hình sự, trực tiếp vi phạm mục (2) điều §9 Hiến pháp Đức, bị cấm hoạt động. Một xã hội thượng tôn pháp luật, tự nó sẽ vận hành một khi pháp luật bị vi phạm: Để chấm dứt ngay hành vi phạm pháp trên, bảo vệ nhân phẩm của mình, bà Trịnh Thị Mùi viện ngay tới luật sư đệ đơn lên toà án điạ phương Amtsgericht Lichtenberg, Berlin, Đức, „Yêu cầu toà ra án quyết khẩn cấp, chiểu theo Điều §§ 935 ff., 91 Luật ZPO, cấm lập tức Liên hiệp, đại diện bởi ông Nguyễn Văn Thoại Chủ tịch và ông Vũ Quốc Nam Phó Chủ tịch, đăng tải trên trang web Liên hiệp 2 câu liên quan tới bà Trịnh Thị Mùi. Nếu tái phạm, sẽ bị phạt tiền tới 250.000 Euro hoặc phạt tù 6 tháng“. Theo luật định về án quyết khẩn cấp, toà phải thụ lý ngay, lên lịch xét xử. Chỉ sau 15 phút, toà kết thúc với án quyết số 3 C 1004/13, nội dung: “Bên nguyên thông báo, bài viết vi phạm bị phản đối đã được gỡ bỏ. Bên bị cam kết, bài viết về gặp mặt giữa ông Nguyễn Thanh Sơn và BCH sẽ không đưa lên truyền thông nữa, nhất là trên trang mạng của Liên hiệp”. Hệ quả dẫn tới một án quyết Đức ghi cả tên Thứ trưởng Việt Nam có một không hai trong lịch sử ngoại giao này, bắt nguồn từ mô hình hội đoàn giữa 2 nước Việt Nam và Đức vốn khác nhau về bản chất, nguyên lý vận hành, xuất phát từ 2 hình thái kinh tế xã hội đối lập nhau giữa các nước TBCN và XHCN trước đây. Ở TBCN,  hội đoàn thuộc phạm trù xã hội dân sự, hay xã hội công dân, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “politiké koinonia”, sau này chuyển ngữ sang tiếng La Tinh “societas civilis”, được hiểu là tập hợp các công dân tự do. Lý luận về xã hội dân sự mô phỏng xã hội loài người như một vòng tròn chưá 3 vòng tròn ngoại tiếp nhau, gồm vòng tròn nhà nước hoạt động bằng quyền lực, vòng tròn thị trường trao đổi kinh tế, vòng tròn gia đình trao đổi tình cảm, riêng tư. Khoảng không gian giữa 3 vòng tròn đó chính là xã hội dân sự, nơi hoạt động bất vụ lợi của các hội đoàn, tổ chức, phong trào, biểu tình, bàn tròn, diễn đàn… Mấy triệu người Việt Nam sống  khắp thế giới hiện nay, khởi đầu đa số đều “chân ướt chân ráo”, thâm chí thân cô, thế cùng, có khi đánh cược bằng cả sinh mạng, được nước họ cưu mang đùm bọc, mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã cảm ơn trong chuyến thăm Mỹ vừa qua, chính nhờ vai trò nền tảng xã hội dân sự họ tác động lên chính quyền. Bởi chính quyền sinh ra không phải để  nuôi công dân nước khác, mà vì lòng nhân của công dân nước họ buộc nhà nước họ phải làm. Ở Đức bao trường hợp chính quyền trục xuất về Việt Nam đúng luật vẫn buộc phải đón trở lại nhờ sức mạnh đấu tranh của các hội đoàn, phong trào Đức, như phong trào “Bàn tròn Thu Nga” năm 2004 với trường hợp học sinh Thu Nga 14 tuổi, hay Hiệp hội ủng hộ tỵ nạn với trường hợp cả gia đình ông bà Nguyễn năm 2011. Mô hình hội đoàn ở ta tương tự Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây, là “một bộ phận trong hệ thống chính trị xã hội”, “đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”, do nhà nước bao cấp lương và kinh phí, được tổ chức và vận hành theo cấp chính quyền từ trung ương tới điạ phương. Ngược lại, mô hình hội đoàn Đức, luật quy định, chỉ cần tối thiểu 7 người là được phép thành lập một hội đoàn, hoàn toàn độc lập với chính quyền và mọi tổ chức xã hội khác, nơi khác, tự quy định tôn chỉ mục đích, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động, gọi là điều lệ đóng vai trò nền tảng như hiến pháp; tự bầu cử BCH và các hội đồng, ban bệ; tự lo tài chính kinh phí; hoạt động không được phép trả thù lao; nếu đăng ký ở toà án thì có tư cách pháp nhân nghĩa là Chủ tịch phải chịu trách nhiệm pháp lý, còn không thì tất cả hội viên phải cùng chịu chung. Ở Đức hiện có 280.000 hội đoàn khác nhau có đăng ký, thu hút 60% của trên 80 triệu dân số Đức. Liên hiệp người Việt ở Đức được thành lập năm 2011 theo đúng mô hình trên, thu hút 172 đại biểu cả cá nhân lẫn hội đoàn, trong đó có đại diện 72 hội đoàn, trên tổng số chừng 100 hội đoàn toàn Liên bang. Bản dự thảo điều lệ tham khảo từ 5 Liên hiệp người nước ngoài lớn nhất ở Đức, bổ sung, sửa chữa sau khi tiếp nhận 33 ý kiến đóng góp. Tuy nhiên, do thiếu kiến thức hoà nhập về mô hình hội đoàn và đảng phái ở Đức, khi Liên hiệp bước vào hoạt động, Chủ tịch cùng Phó Chủ tịch thường trực vốn trên dưới nửa đời người học, làm việc trong nước và Đông Đức, điều hành Liên hiệp hoạt động theo mô hình XHCN như một quán tính, ra văn bản khẳng định Chủ tịch là cấp trên của BCH và Liên hiệp, sai với mô hình hội đoàn Đức không được phép và không thể phân cấp bậc hành chính trong hội đoàn vốn mang tính tự nguyện, ai tâm huyết thì tham gia không thì thôi, chẳng ai lệnh được cho ai, mà chỉ theo nghị quyết, thoả thuận. Đảng phái cũng vậy, chỉ khác hội đoàn ở chỗ hoạt động trên lĩnh vực chính trị. Số lượng 1 hội đoàn hay đảng phái ở Đức so với Việt Nam nói chung không nhiều, đảng FDP do Rösler gốc Việt làm chủ tịch, tham gia chấp chính, hiện chưa tới 60.000 đảng viên so với ở ta 3 triệu. Bỏ đảng này tham gia đảng khác là bình thường, kể cả chủ tịch Đảng cũng vậy. Với quan niệm mình là cấp trên, Chủ tịch cùng Phó Chủ tịch thường trực khi đăng ký ở toà án đã tự ý sửa biên bản đại hội lẫn điều lệ theo ý mình, biến Liên hiệp trở thành liên kết các cá nhân, phá vỡ hoàn toàn mô hình kỳ vọng của cộng đồng mong muốn liên kết các hội đoàn điạ phương trong một mái nhà Liên hiệp, bị HĐTV có chức năng đại diện hội thành viên và giám sát BCH can thiệp không được đành phải viện tới toà, hiện đang chờ phán quyết. Hậu qủa, Liên hiệp nay chỉ còn hơn 90 hội viên cá nhân, không có thẻ hội thành viên, thuộc loại nhỏ nhất các hội đoàn người Việt ở Đức. Nội bộ bất ổn, Chủ tịch đọc báo cáo trước Đại hội công khai chia cộng đồng thành 2 loại ủng hộ và chống phá Liên hiệp (ở Đức là một khái niệm hình sự phải có hậu quả thiệt hại), chụp mũ bất cứ ai chỉ trích mình đều là chống phá Liên hiệp. Bất chấp điều lệ quy định loại bỏ họ kể cả thành viên BCH. Vô hiệu hoá HĐTV bị HĐTV đề nghị Đại hội miễn nhiệm Chủ tịch. Buổi gặp gỡ Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn phải viện tới toà giải quyết là hệ quả pháp lý không thể tránh khỏi khi không chỉ Liên hiệp mà cả Thứ trưởng cũng áp dụng mô hình hội đoàn XHCN vào quốc gia TBCN: 1- Với tư cách Chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, theo mô hình hội đoàn trong nước, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn coi sự sống còn của Liên hiệp thuộc trách nhiệm của mình, nên đã can thiệp với hình thức dưới báo cáo trên chỉ đạo „tháo gỡ“, trong khi Hội đoàn ở Đức độc lập, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng pháp lý với bất kỳ cơ quan công quyền nào, không nhà chức trách nào được phép can thiệp. 2- Với trách nhiệm trước công dân nước  mình, Thứ trưởng yêu cầu BCH „nêu rõ  nguyên nhân và những người  đã gây ra sự bất ổn cho cộng đồng“. Nhưng nếu có bất ổn thật thì đó là công việc quốc gia Đức, thứ trưởng chỉ có thể can thiệp cho công dân nước mình qua con đường ngoại giao, chưa nói cộng đồng người Việt có tới 1/5 quốc tịch Đức. 3- Điều lệ do hội viên đề xuất và đại hội biểu quyết theo ý chí hội viên họ, nhưng Thứ trưởng chỉ đạo, tức theo ý mình, „Liên hiệp cần tiến hành sửa đổi, bổ sung Điều lệ cho hợp lý… „. 4- Với tư cách chính quyền, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn quyết định chỉ công nhận BCH „mới có vai trò  lãnh đạo  Liên hiệp“, trong khi theo luật Đức các cơ quan Liên hiệp do điều lệ họ quy định, không cấp nhà nước nào được phép thừa nhận hay không. Không chỉ hội đoàn, biểu tình cũng thuộc xã hội dân sự, thể hiện ý thức tự nhiên của con người trước đồng loại, hoàn toàn bất vụ lợi, được xã hội hiện đại coi là một quyền cơ bản thiêng liêng, được các quốc gia tiến bộ khuyến khích, bảo đảm, cho dù chống lại nhân sự hay chính sách nhà nước họ ban hành; hiến pháp nước ta cũng ghi nhận quyền đó. Trong khi đó, Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước, trên nghị trường quốc gia, được truyền thông cho cả thế giới biết, công khai miệt thị điều thế giới trân trọng: „Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có thể đài thọ cho một sự ô danh“. Nay tới lượt Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn đánh giá biểu tình ở Mỹ sai lệch cả lý thuyết lẫn thực tế về xã hội dân sự – mà bất cứ ai đã từng 1 lần biểu tình ở bất cứ nước nào đều có thể nhận ra – đụng chạm tới quyền thiêng liêng bất vụ lợi của người biểu tình, khi ông trả lời báo chí thế giới: „có những người chỉ vì đồng tiền, có những người chỉ vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có một chút thu nhập thêm mà tham gia“.  Ở họ, bất kỳ cuộc biểu tình nào nhằm kiếm thu nhập, nghĩa là vụ lợi, đều bị pháp luật cấm, nên tuyệt không thể xảy ra như Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn phát biểu, mà không hề hấn gì ! Khác với chiến tranh, chính biến, cách mạng bạo lực, biểu tình chống nhà nước họ hay nhà nước khác không đồng nhất với nhà nước đó hoàn toàn xấu, hay phải lật đổ, mà chỉ là sự biểu thị thái độ, chính kiến đối với những chính sách, nhân sự nhà nước đó mà họ quan tâm. Thái độ của nhà nước đối với biểu tình như thế nào phản ảnh nền tảng dân chủ tạo nên sức mạnh nhà nước đó ! Thứ trưởng Việt Nam có tên trong án quyết Đức, phát ngôn bị truyền thông thế giới phản ứng là một thực tế sống động cho các chính khách, quan chức Việt Nam tham khảo, nếu muốn dẫn dắt nước mình „sánh vai các cường quốc năm châu“; khi tham gia vào quá trình hội nhập toàn cầu ngày càng tăng tốc, toàn diện và đa chiều, đòi hỏi phải nắm vững không chỉ những nguyên lý, phạm trù phổ quát, mà quan trọng hơn là thực tế vận hành của xã hội, quốc gia họ, hiểu như chính mình đã sống trong đó; không thể lấy quan điểm cá nhân mình, hay rộng hơn mô hình quốc gia mình làm thước đo thế giới – đó chính là tiền đề của hội nhập. Nguồn: Basam.info
......

Phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo về Nghị định 72

Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng đã gặp phải nhiều chỉ trích từ các tổ chức nhân quyền và một số công ty kinh doanh mạng cho rằng nhà cầm quyền Việt Nam vi phạm trầm trọng quyền tự do thông tin và được thông tin. Giới blogger Việt Nam cũng đã phản ứng mạnh mẽ, lên án NĐ 72 vi phạm nghiêm trọng các quyền căn bản của công dân, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận qua việc lưu truyền thông tin trên mạng. Riêng nhà văn Võ Thị Hảo nhận định rằng "Nếu thực hiện theo thông tin này thì con người chỉ có thể bàn về ăn, ngủ, mặc; thế hoá ra con người trở lại ngu xuẩn như loài vật, chỉ biết cúi vào cái máng của mình à?". Mời quí vị theo dõi cuộc trò chuyện giữa nhà văn Võ Thị Hảo và phóng viên Vân Quang về nghị định 72 mà nhà nước CSVN vừa ban hành. Vân Quang: Là một nhà văn, nhà báo, trong các tác phẩm của mình, chị rất quan tâm đến vấn đề dân khí của đất nước. Chị rất ưu tư và băn khoăn nhiều vấn đề khi dân khí đang ngày càng suy đồi một cách nghiêm trọng, chị có thể cho biết là nguyên cớ nào mà dân khí ở nước ta ngày càng suy đồi như thế? Võ Thị Hảo: Vâng, theo tôi thì dân khí Việt Nam ngày càng suy đồi, tại vì dân Việt Nam ngay từ thời phong kiến đã không có tự do ngôn luận và nhân quyền; đến thời thuộc Pháp thì cũng có bị hạn chế nhiều tự do, nhưng dù sao cũng có thể ra được báo chí tư nhân và có được những đảng phái đối lập. Từ năm 1946 đến giờ thì chuyển sang thể chế này thì tôi thấy rằng 67 năm nay, dù hiến pháp Việt Nam năm 1946 có qui định về tự do báo chí, tự do xuất bản, về quyền con người; thế nhưng lại thường xuyên bị vi phạm. Và người nói thật thì hoặc là họ không được nói, hoặc họ bị bức hại. Hệ thống tuyên truyền thì bị cấm đoán rất nhiều; ngay cả lời nói, phát biểu của một số nguyên thủ cũng còn bị cắt, bị sửa. Tôi thấy rằng người dân sợ hãi. Đã có truyền thống nô lệ từ trước; không có tự do báo chí, tự do xuất bản, rồi quyền con người cũng bị xâm hại, bởi vậy lâu ngày quá người ta càng sợ hãi, càng suy đồi. Tôi nghĩ đấy là những nguyên nhân rất quan trọng. Khi mà không có được sự giám sát, không có tam quyền phân lập thì rất khó để chân lý và sự thật được bảo vệ, và khi mà sự thật và chân lý rất khó để được bảo vệ thì con người ta càng sợ hãi, và bởi vậy dân khí càng đi xuống. Vân Quang: Thưa chị, dân khí đi xuống, nhưng bây giờ nhiều phương tiện thông tin đại chúng có thể giúp về vấn đề khôi phục lại để nâng cao dân khí thì lại đang bị nhà nước Việt Nam cản trở, thí dụ vấn đề internet chẳng hạn. Mới đây vào ngày 15 tháng 7, ông Nguyễn Tấn Dũng đã ban hành Nghị định 72, mà theo mọi người thì đây là nghị định bịt miệng người nói và cản trở vấn đề phát triển trao đổi thông tin giữa mọi người với nhau, giao dịch để giúp nâng cao dân khí, chị nghĩ gì về nghị định này ạ? Võ Thị Hảo: Nghị định 72 đối với tôi là một điều tôi không thể tưởng tượng nổi là có một nghị định như thế này. Bình thường tôi cũng không để ý lắm, bởi vì tôi mải mê vào công việc của mình, song đến một ngày khi mà Nghị định 72 được ký ban hành thì tôi ngạc nhiên quá; tôi nghĩ rằng chắc mình đang nằm mơ bởi vì không thể tưởng tượng được là có một cái nghị định mà lạ như thế. Tôi thấy rất lạ là các cơ quan chuyên môn lại có thể tư vấn, đưa cho thủ tướng ký một cái nghị định vi hiến đến như vậy, nó lại còn tệ hơn cả điều 258 của Bộ luật hình sự Việt Nam, cũng là một điều bóp nghẹt tự do ngôn luận và cũng vi hiến nữa. Thế thì nó trái với qui định hiện hành của Hiến pháp Việt Nam về tự do ngôn luận cũng như về tự do báo chí, tự do thông tin, về quyền con người. Sự việc này rất là lạ vì lẽ ra, các cơ quan truyền thông chính thống - chẳng hạn như báo chí, báo chí của nhà nước - gọi là báo lề phải, người ta phải mất tiền cho dân đọc, cho dân bình luận, để cho mọi người càng bình luận, càng đọc để rộng rãi thì càng mừng chứ; như thế mới là có tác dụng của tuyên truyền. Tôi không thể tưởng tượng được có những qui định lạ như là: các trang thông tin cá nhân thì không được đưa thông tin tổng hợp, rồi tự trích dẫn thông tin từ các cơ quan báo chí hay các trang web của cơ quan nhà nước; nếu mà thế thị bị xử lý, theo một trả lời của một ông có chức lớn trong ngành quản lý phát thanh và truyền thông. Tôi không thể tưởng tượng được, như thế thì lạ quá; bởi vì là con người, cho dù đưa thông tin cá nhân hay những lời lên trang web của mình, hay là nói chuyện ở ngoài xã hội thì con người vốn là tổng hợp của các vấn đề trong xã hội, thì làm sao lại có thể không đề cập đến những câu chuyện của xã hội? Chẳng hạn như hôm nay, có người giết một người, hoặc là có người đưa thực phẩm độc vào trong bún hay trong gạo; hoặc có người thấy người ta chìm thuyền chết cả bao nhiêu người mà không cứu. Tất cả những cái ấy, người ta phải bàn luận chứ. Nếu mà thực hiện theo thông tin này thì con người chỉ có thể bàn về ăn, ngủ, mặc; thế hóa ra con người trở lại ngu xuẩn như loài vật, chỉ biết cúi vào cái máng của mình à? Sao kỳ lạ như vậy, tôi không thể tưởng tượng nổi; nó vi hiến, vi phạm luật báo chí và vi phạm các cam kết quốc tế về truyền thông. Tôi không thể tưởng tượng được. Tôi nghĩ rằng nghị định này ra đời chưa được sự kiểm tra của những người có chuyên môn, của Bộ tư pháp, và vì vậy mới xảy ra một trường hợp đưa ra một nghị định mà lại vi hiến đến mức này. Tôi nghĩ là Bộ tư pháp và Quốc hội cần vào cuộc để thẩm tra lại () cái nghị định này. Chẳng hạn như việc cấm tất cả các trang ở nước ngoài không được đưa những thông tin có hại cho đảng, nhà nước. Thế thì qui định như thế nào là có hại? Nếu đưa những thông tin về sự thật thì tôi nghĩ rằng nó không những không có hại mà có lợi cho đảng và nhà nước, cho chính phủ chứ! Tại vì nếu mà chính phủ muốn vững mạnh thì cần phải nghe những thông tin về sự thật để điều chỉnh lại mình. Thế thì tại sao lại đưa ra một cái nghị định với những qui định lạ đời như thế này, tôi không tưởng tượng nổi. Vân Quang: Để dân khí được nâng cao, để người dân không thể vô cảm trước tình hình, hiện trạng của đất nước, cũng như trong cuộc sống xã hội hiện nay, thì theo chị chúng ta phải có những biện pháp như thế nào, và làm thế nào vượt qua những điều mà chúng ta đang bị cản trở? Võ Thị Hảo: Về vấn đề dân khí, tôi biết là có những kiểu cầm quyền, những kiểu thể chế, họ sẽ ứng xử khác nhau với trình độ dân khí. Chẳng hạn như những nhà cầm quyền mạnh mẽ, tự tin và biết tôn trọng quyền con người và quyền tự do - quyền đương nhiên của mỗi một công dân, không bất cứ ai được quyền tước bỏ - thì họ sẽ rất mừng khi người dân có mức độ dân khí cao, người công dân có tự trọng, dám mở miệng, dám cảnh báo và nói sự thật; bởi vì sự thật là cái gốc của mọi sự tồn tại. Nếu nền tảng cao nhất của mọi sự tồn tại không có sự thật thì chúng ta xây nhà trên bùn, thì đương nhiên là nhà đổ. Nhưng với những thể chế không tự tin và chỉ muốn tước đoạt quyền tự do, quyền đương nhiên của con người, thì đương nhiên luôn luôn sợ hãi và làm mọi cách để cho dân khí tồi tệ đi; và dân càng tối tăm, càng sợ hãi, càng nô lệ thì họ càng mừng. Nhưng tôi nghĩ đấy là một sai lầm, và nếu cứ áp dụng những cách đó mãi thì sẽ không tồn tại được. Đấy là điều mà lịch sử hàng bao nhiêu năm nay đã chứng minh rồi. Tôi nghĩ là để làm cho dân khí lên cao thì đương nhiên là phải cải cách thể chế, phải trả lại cái quyền tự do cho con người và phải để cho nền kinh tế tư nhân phát triển, ruộng đất phải thuộc về tay người dân, người dân phải có quyền sở hữu về ruộng đất. Cuối cùng bao nhiêu sông cũng chảy vào biển, cuối cùng thì người dân cũng đóng góp cho đất nước này vững mạnh mà thôi, cho con người Việt Nam đỡ hèn kém nhục nhã, đỡ ác với nhau đến mức mà xã hội loạn như thế này. Tôi nghĩ rằng đấy là việc cần phải làm. Tất nhiên, trong đó nếu dân khí Việt Nam suy đồi thì cũng một phần tại những công dân Việt Nam; mỗi người phải tự thấy có trách nhiệm, phải tự thấy rằng mình phải xác tín quyền làm người của mình. Tôi đã nói nhiều lần rồi, ở đây tôi chỉ lập lại, tức là phải đặt mình ngang hàng với một con vịt, con gà chứ; có quyền kêu lên tiếng của một sinh vật đang sống, chứ không phải một sinh vật đã chết. Điều này trước hết là do có những người muốn bóp nghẹt quyền của con người, và họ có sức mạnh trong tay, có công cụ để đàn áp, có thể bức hại con người. Nhưng một mặt nữa là con người Việt Nam, mỗi người đã chưa ý thức về trách nhiệm con người của mình, trách nhiệm sinh vật của mình, và để làm cho càng dễ bị đàn áp hơn vì chúng ta thờ ơ với nhau quá. Tôi nghĩ rằng tất cả đều phải cố gắng, mỗi người hãy mở miệng ra để xác tín rằng chúng ta đang sống và chúng ta chỉ làm điều tốt thôi, không có gì là đối lập với chính phủ cả; và đấy là giúp chính phủ nhận ra sự thật và làm điều tốt. Tôi nghĩ như vậy và đương nhiên là phải cải cách thể chế càng sớm càng tốt, không thể để như thế này được. Vân Quang: Xin cảm ơn nhà văn, nhà báo Võ Thị Hảo về cuộc nói chuyện thân tình này. Xin chúc chị mạnh khỏe, xin cảm ơn chị. Võ Thị Hảo: Xin cảm ơn anh và chúc sức khỏe cũng như sự bình an cho các bạn. Nguồn: RadioCTM
......

Thánh lễ cầu nguyện cho những thanh niên yêu nước tại Hamburg

Thánh lễ cầu nguyện cho những thanh niên yêu nước tại Hamburg Giới thiệu về nhóm "Bạn của Đặng Xuân Diệu"   Vào ngày 27.7.13, lúc 15 giờ, trong không khí oi bức của ngày hè, hai linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải và Vincent Maria Phạm Cao Quý đã cử hành thánh lễ đồng tế trong thánh đường Maria Himmelfahrt trong quận Rahlstedt, thành phố Hamburg, Đức Quốc. Giáo dân Việt Nam trong giáo xứ đã vận động được sự đồng ý của cha xứ để có một buổi thánh lễ dành riêng cho người Việt Nam.   Thánh lễ đã diễn ra trong bầu không khí thật trang nghiêm với đề tài "Cầu nguyện và ý nghĩa của cầu nguyện" do cha Khải làm phó tế, thuyết giảng. Khoảng 100 giáo dân trong ngôi thánh đường rộng thênh thang đủ giúp buổi lễ thành công ngoài dự trù của ban tổ chức - Nhóm "Bạn của Đặng Xuân Diệu. Xen kẽ vào nghi lễ, lời kinh và lời giảng là những bài thánh ca trầm bỗng, du dương, lắng đọng vang lên do Ca đoàn Thánh Linh đảm trách. Tấm ảnh của người thanh niên Công Giáo yêu nước Đặng Xuân Diệu với câu nói sau cùng của anh khi bị nhà cầm quyền cộng sản kết án đã được trang trọng kết trước bục giảng. Đặng Xuân Diệu đã bị phiên tòa bất công, bỏ túi tuyên án 13 năm tù và 5 năm quản chế về tội "âm mưu lật đổ chính quyền" (điều 79). Như bao phiên tòa "công khai" khác, cáo trạng buộc tội của quan tòa chứa đầy khuất tất, không thuyết được ai. Hình ảnh 14 thanh niên yêu nước được dán trước bàn làm lễ. Trước đó là thánh giá được cấu thành từ 14 đóa hồng trắng tinh đựng trong lọ hoa nhỏ. Cha Khải, đôi lúc, như nhiều người đã biết, đã giảng như một nhà hùng biện. Bài giảng của Cha thường đi sát với nhu cầu thiết thân của giáo dân.   Sau một giờ đồng hồ, nến đã được phát cho giáo dân - không đủ - và theo sáng kiến của hai Cha, mọi người rước nến đi thành hàng dài sang hội trường nắm cách nhà thờ một khoảng sân khá rộng. Tại đây, sau chừng 20 phút giải lao, chương trình hội thảo đã bắt đầu bằng chùm dương ảnh (dias show) giới thiệu về anh Đặng Xuân Diệu và những hoạt động của anh về mặt xã hội, cũng như hình ảnh các thành viên của nhóm Bạn ĐXDiệu đã đến thăm gia đình anh trong dịp sinh nhật anh vào ngày 8.7 vừa qua. Ban tổ chức cũng đã kêu gọi mọi người hỗ trợ gia đình ĐXD về vật chất lẫn tinh thần như gọi điện thoại về an ủi gia đình của ĐXD. Ngay tại chỗ, quỹ nhóm Bạn ĐXD đã được sự hưởng ứng khá nồng nhiệt.     Một quầy hàng bán thức ăn tươm tất và ngon miệng đã được các thân hữu cũng như thành viên Ca đoàn Thánh Linh nhiệt thành thực hiện. Tiền thu được sẽ được gửi về gia đình những thanh niên yêu nước. Cha Nguyễn Văn Khải cũng không quên cung cấp danh sách gia đình những thanh niên đó để mọi người có thể gọi điện về trò chuyện, thăm hỏi.   Nhờ tài diễn thuyết hấp dẫn, hầu như tất cả mọi người đều ở lại đến phút cuối của buổi hội thảo "Vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam" đã diễn ra trong bầu không khí thoải mái, cởi mở, súc tích. Những câu hỏi của cử tọa đã được cha Khải giải đáp thỏa đáng. Ngày sinh hoạt bổ ích đã chấm dứt sau 20 giờ trong sự lưu luyến chia tay của giáo dân đối với hai cha Quý và Khải. Nhóm Friends of Đặng Xuân Diệu
......

Người Việt ở Âu Châu

Tôi đi không nhiều nơi, không gặp nhiều người lắm. Nên bài viết này không khái quát hết toàn bộ người Việt ở Châu Âu. Chỉ một góc hẹp trong số những người tôi gặp. Người Việt sang Châu Âu rất đa dạng , đi học, đi làm, và di tản. Người di tản thường là người miền Nam đi hồi năm 1975 bằng con đường vượt biển, họ được tàu Châu Âu cứu và theo tàu của nước cứu về định cư tại nước đó. Có nước dùng riêng cả một con tàu lang thang ngoài biển Đông xem có người Việt vượt biên không để cứu vớt. Cá biệt có số người miền Nam VNCH đi học thời đó và khi chiến tranh xảy ra họ ở lại luôn không về nữa. Nhiều gia đình người Việt di tản là người gốc Bắc di cư vào Nam năm 1954. Ở những gia đình này tiếng Việt thuần khiết cũng như các phong tục, lề thói được giữ gìn một cách trang nghiêm, nền nếp đến đời thứ ba. Ở Bremen tôi được ăn những bát bún thang của một bà mẹ hơn 80 tuổi,người phố Hàng vải cũ. Bát bún của bà làm tôi ngạc nhiên bởi nước dùng trong vắt và ngọt thơm, một bát bún hương vị đặc biệt của Hà Nội không lẫn tạp. Chỉ tiếc điều sợi bún làm từ bún khô chứ không phải bún tươi. Những người trong gia đình này đối xử với nhau ân cần, lễ độ , trên dưới một cách rất Hà Nội cũ. Rất nhiều người Việt già di cư năm 1975 vẫn đi làm, ở tuổi 80 hay thậm chí hơn họ vẫn chăm chỉ kiếm việc nào phù hợp với mình. Ở Oslo tại một nhà đôi vợ chồng già người Bắc di cư năm 54, thức dậy lúc 7 giờ sáng tôi ngạc nhiên thấy trong nhà không có ai. Cả hai ông bà đều đi từ lúc nào, chỉ có mảnh giấy ghi lại lời dặn thức ăn để trong tủ lạnh và chìa khóa nhà nằm trên mẩu giấy. Những đôi vợ chồng gia đã sống qua bao nhiêu biến động, chia ly, tù đày, vượt biển ấy sống rất ân cần với nhau. Nhìn cái cách mà họ nói chuyện, cư xử với nhau tôi không hình dung được ở họ đã có những quãng thời gian chia ly đầy khắc nghiệt mà giờ khó có đôi vợ chồng nào ở Việt Nam có thể chịu đựng được. Những người đàn ông đi cải tạo bao nhiêu năm dài đằng đẵng xứ Bắc. Người vợ ở miền Nam vừa tần tảo nuôi con, vừa tiếp tế cho chồng nơi xa tít tắp. Ở nơi đây họ sống yên bình, đi làm, về nấu nướng chăm sóc nhà cửa, nghe tin tức Việt Nam với vẻ buồn da diết vì những chuyện thương tâm xảy ra liên miên. Người già miền Nam dù rất tế nhị, nhưng tôi vẫn thấy sự khó chịu của họ với tôi khi họ thấy tôi là người Bắc . Chỉ một số ít đọc những gì tôi viết thì họ không thế. Còn lại đa số họ có vẻ không ưa tôi. Thậm chí gặp những lời khá gay gắt tôi cúi đầu nhẫn nhịn vâng dạ chịu trận, họ nói tôi như chính tôi là những người đã tiến vào miền Nam năm 1975 và đẩy họ phải ly hương. Tôi không có thói quen giới thiệu về mình, mà có giới thiệu tôi thường nói mình là một tay lưu manh. Bởi vậy tôi thích gặp người Việt gốc Bắc di cư năm 54 hơn, vì ở họ tôi thấy gần gũi, thấy thân thiết và dễ đồng cảm hơn. Những người là quân nhân của quân lực VNCH vẫn tha thiết với chế độ mà họ đã sống, thế nhưng họ hầu như chẳng đọc tin tức gì về Việt Nam ngày nay. Sinh hoạt của họ một năm gặp nhau vài lần, ôn chuyện cũ, gói gọn chỉ có vậy. Ở một số người miền Nam khác thì họ có đọc đôi chút, nhưng họ chỉ nhắc tới, quan tâm tới những người đấu tranh dân chủ là người miền Nam. Còn đâu họ không biết gì về những người đấu tranh miền Bắc, hoặc có thể họ không tin, không thích nhắc đến. Những người Việt gốc Bắc đi học trước năm 1990 cũng khá dễ chịu, họ là những người hiểu biết, có kiến thức, có cái nhìn tương đối chính xác về thực trạng hiện tại ở quê hương. Sống với họ thật dễ chịu hơn cả những gia đình người Việt gốc Bắc đi năm 54. Đơn giản chỉ vì họ trẻ hơn, mình có thể tuềnh toàng văng một câu chửi bậy, nói to một chút mà không phải e ngại. Người Việt gốc Bắc đi học trước 1990 có cái hay là ở vị trí của một người trí thức, nhưng họ rất hiểu đời sống Việt Nam, kể cả cách sống của giới giang hồ. Cho nên họ đối xử rất khoáng đạt không cần câu nệ lắm. Còn người Việt đi lao động, đi học sau này thì thật hiếm hoi tìm thấy người có quan tâm đến đất nước theo kiểu "lề trái''. Hầu hết tất cả trong số họ đều còn rất nhiều thứ liên quan ở Việt Nam, liên đới với đại sứ quán. Một số hiếm hoi trong họ còn sự phẫn nộ với hành động Trung Quốc chiếm biển đảo của Việt Nam, đa còn lại phần chỉ chăm chút kiếm tiền, vun vén cuộc sống gia đình. Ở những người này thì tình trạng cũng y hệt giới tương tự với họ ở Việt Nam. Một lứa trẻ hơn những thanh niên ở tuổi 20 đến 30 người Việt gốc Bắc, họ bê nguyên xi lối sống ở Việt Nam sang đây, co cụm lại ở một nơi như chợ Đồng Xuân, Sa Pa. Những cô gái vùng quê giờ nhuộm tóc, xăm hình, mỹ phẩm cong cớn bê đồ cho khách. Những chàng trai xăm trổ rồng phượng, đầu tóc đủ loại ngỗ ngược nói chuyện bằng những câu văng tục, họ kể về cuộc ăn chơi tối qua thác loạn ra sao, hết mấy nghìn đồng. Cái cách họ kể đầy tự hào như một chiến tích về cuộc thác loạn rượu, gái, thuốc lắc một cách sôi nổi tự nhiên. Một số sinh viên đi học sống hiền lành và khiêm nhường , họ chăm chỉ vào việc học và kiếm thêm tiền để chi tiêu, những người này sống khá trầm lặng bởi chương trình học của họ. Hóa ra mấy triệu người Việt ở hải ngoại, không phải tất cả là những người quan tâm đến đất nước như ta gọi tế nhị là "'lề trái". Cũng như ở Việt Nam, nhiều người trong số họ sống hưởng thụ, ăn chơi, kiếm tiền gửi về cho người thân, thỉnh thoảng tham gia vài chương trình do sứ quán kêu gọi để lấy quan hệ thân thiện. Chẳng có gì khác biệt với trong nước. Thậm chí là cả những người Việt tị nạn năm 1975, nhiều người trong số họ giờ sống an phận né tránh những điều gì khiến chính quyền Việt Nam không hài lòng, và tranh thủ có những dịp gì khiến chính quyền hài lòng thì tham gia. Y hệt trong nước, những người có tiền được khuyến khích từ đại sứ là thôi giờ đất nước đã ổn định rồi, có lòng với quê hương thì đóng góp từ thiện, quan tâm ba cái chuyện chính trị làm gì. Đại khái là đừng tham gia những chuyện mà chính quyền Việt Nam không ưa, cứ kiếm tiền rồi về Việt Nam tiêu, gửi về cho người thân, đóng góp từ thiện là cách hay nhất, an toàn nhất. Số người Việt ở Châu Âu đa phần theo xu hướng sống này, nó cũng là bản chất chung của người Việt mấy chục năm gần đây ở trong nước. Thế mới biết không đi thì không biết, trước đây cứ nghĩ người Việt hải ngoại "lề trái " nhiều lắm. Giờ mới biết con số đó không nhiều. Và những người đó chẳng giàu có gì, các đại gia có tiền thì họ chả tham gia hay quan tâm đến chính trị làm gì, họ lấy quan hệ tốt với đại sứ để còn về nước ăn chơi, tậu đât đai. Những người hải ngoại quan tâm đến "lề trái " thường là những người bình thường, cặm cụi đi làm quần quật, họ dành dụm phần tiền nào đó để giúp đỡ cho gia đình những người bị bắt trong nước, hay những người bị khó khăn vì có hành vi , lời nói mà nhà nước Việt Nam gọi là "phản động''. Một điều cảm động là họ có khi chả nằm trong tổ chức, đảng phái nào. Chỉ vài gia đình sống gần nhau, cuối tuần gặp nói chuyện quê nhà, thấy ai ở trong nước khó khăn, mỗi người họ bỏ ra vài chục đồng gom lại gửi trực tiếp về. Họ cứ làm âm thầm ròng rã như vậy từ năm này qua năm khác mặc dù họ chả giàu có gì, ở tuổi ngoài 80 họ vẫn cặm cụi đi làm vệ sinh ở nhà hàng, rửa bát quán ăn. Tóm lại thì chuyện đấu tranh, dân chủ thì bên ngoài hải ngoại, chẳng phải ai cũng quan tâm đến. Phần lớn cũng muốn an phận, giữ hòa khí với chính quyền, thậm chí nhiều người dù ở bên ngoài vẫn còn sợ chính quyền Việt Nam, thỉnh thoảng mon men ra đại sứ quà cáp, biếu xén lấy tình cảm. Dân Vệ chỉ thế thôi, đi đâu cũng vẫn thế. Nguồn: Blog Người Buôn Gió
......

Thánh Lễ và Thắp Nến Cầu Nguyện Cho LS Lê Quốc Quân tại Đào Viên, Đài Loan

Trong dịp Đại Lễ kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam huyện Đào Viên đã tề tựu về thánh đường Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ vào lúc 19g ngày 30.6.2013, tham dự thánh lễ và thắp nến cầu nguyện cho LS Lê Quốc Quân. Đã có trên 400 anh chị em công nhân, cô dâu hiện diện tham dự thánh lễ. Cha chủ tế Phêrô Nguyễn Văn Hùng đã mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cách riêng cho LS Lê Quốc Quân và gia đình của anh trong những ngày trước phiên xử 9/7 sắp đến, trong phần mở đầu thánh lễ. Cha đã giới thiệu ngắn gọn về LS Quân và nói rõ lý do anh bị bắt và đưa ra xử vì lý do chính trị, không phải lý do như nhà nước gán ghép. Điều này được thể hiện qua những bài viết, phát biểu của anh liên quan đến những vấn đề tham nhũng, hối lộ, nghèo đói, bất công và vấn đề mất Hoàng-Sa, Trường-Sa của Việt Nam. Cha chủ tế, trong bài giảng, đã nhấn mạnh đến vài trò chứng nhân của 2 thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Cha đã nối kết sự can đảm và hăng say rao truyền Phúc Âm với tấm gương can đảm và hăng say của LS Lê Quốc Quân trong những việc lên tiếng công khai trước dư luận quốc tế về những nguy cơ tiềm ẩn do cơ chế độc tài đảng trị, dẫn đến nguy cơ mất biển, mất nước. Những buổi xuống đường đi biểu tình cùng với nhân dân, phản đối sự hèn yếu, khiếp nhược của chính quyền trước những đòi hỏi phi lý của chính quyền Trung Quốc, cũng như “hèn với giặc, ác với dân” của chính phủ Việt Nam ngày hôm nay. Linh mục Nguyễn Văn Hùng cũng đã nhắc lại biến cố thánh Phêrô được thiên thần đến giải cứu từ trong ngục tù do những lời cầu nguyện của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, kêu xin cùng Thiên Chúa. Trong tâm tình hiệp thông, noi gương đó, cha mời gọi mọi người trong thánh lễ, cùng có 1 tâm tình tương tự của cộng đoàn của thánh Phêrô hơn 2000 năm trước. Sức mạnh của lời cầu nguyện, xuyên thủng cách biệt địa lý, không gian tuôn đổ trên LS Lê Quốc Quân trong đêm nguyện cầu hôm nay. Chắc chắn LS Quân sẽ cảm nhận được lời nguyện cầu của cộng đoàn ngay trong giây phút này. Sau lời nguyện Thánh Thể, cha chủ tế đã mời gọi mọi người cùng thắp nến và đưa cao các lời khắng định như “LS Lê Quốc Quân Vô Tội, LS Lê Quốc Quân Là Người Yêu Nước và Trả Tự Do cho LS Lê Quốc Quân”. Mọi người đã sốt sắng hát bài Kinh Hoà nhiều lần. Những ngọn nến cháy sáng và lời ca thánh thiêng trầm bổng quyện lẫn nhau, trong những dòng lệ chảy dài trên má đến từ cảm xúc rung động của những con tim cảm thông của những người cùng đức tin. Điều này đã được thể hiện qua những lời cầu nguyện tha thiết được cất lên và theo sau là khẩn nguyện “xin Chúa nhậm lời chúng con.” Sau đó, mọi người đã sắp hàng đi lên cung thánh với ngọn nến cháy sáng trên tay. Những ngọn nến đơn lẽ đã được đặt chung với nhau trở thành 1 rừng nến. Biểu tượng của những ngọn lửa hy vọng, bừng sáng; xua tan bóng đêm của bất công, sợ hãi, nghèo đói trên quê hương. Với sức mạnh hiệp thông cầu nguyện, LS Lê Quốc Quân, sẽ là 1 trong trăm triệu ngọn nến, thắp sáng niềm tin, hy vọng cho 1 tương lai Việt Nam dân chủ, công bằng và phú cường, sẽ đến trong 1 ngày không xa trên quê hương Việt Nam dấu yêu. Nguồn: http://thanhnienconggiao.blogspot.com.au/
......

Người trẻ Việt được trao Giải Hành trình Can đảm

Một điều quan trọng cần nói là mình không bao giờ quên là mình may mắn được đến đây và đừng bao giờ quên phải vươn ra giúp đỡ những người tị nạn sau này và luôn nhớ về nước Việt Nam. Mong một ngày gần đây mình có thể giúp đem lại các quyền tự do cho người dân Việt Nam mà ai trên thế giới này cũng phải có. Chris Phan   Trà Mi kính chào quý vị và các bạn đến với Tạp chí Thanh Niên của đài VOA. Một người trẻ Việt Nam tị nạn tại Hoa Kỳ vừa được vinh danh Giải thưởng Hành trình Can đảm nhân Ngày Thế giới về Người tị nạn 20/6 năm nay. Lễ trao giải thưởng của tổ chức mang tên Dịch vụ Tị nạn và Nhập cư Lutheran vừa diễn ra tối hôm 19/6 và Trà Mi hân hạnh được đón tiếp người được vinh danh tại phòng thu đài VOA, Nghị viện thành phố Garden Grove, nơi có đông người Việt sinh sống nhất nhì ở hải ngoại, Thiếu tá Luật sư Hải quân Hoa Kỳ, Chris Phan. Trà Mi: Xin chào anh, rất cảm ơn anh đã đến với đài VOA hôm nay.  Thiếu tá Chris Phan: Xin chào Trà Mi và khán thính giả của đài VOA. Thiếu tá Hải quân Luật sư Chris Phan  Trà Mi: Cuộc hành trình của anh đến với giải thưởng này như thế nào, dựa trên những đóng góp nào? Vì sao anh được chọn trao giải?   Thiếu tá Chris Phan: Tại vì tôi có lo lắng cho người tị nạn, không chỉ là người tị nạn Việt Nam mà trên thế giới nữa. Trong thời gian sinh hoạt với quân đội Hoa Kỳ, tôi có đi chiến tranh bên Iraq với đội người nhái Navy Seal của Mỹ. Lúc về lại Mỹ, tôi có giúp những người từ Iraq nộp đơn xin tị nạn qua Mỹ. Tôi rất may mắn được sang Mỹ tị nạn, cho nên khi có cơ hội thành công, tôi luôn nhìn trở lại và giúp thêm nhiều người tị nạn khác.   Trà Mi: Hành trình đến với giải thưởng này trải qua nhiều thời gian, đóng góp, và công sức. Thế còn hành trình của anh đến với nước Mỹ này trong vai trò là một người tị nạn để cuối cùng được vinh danh nhân Ngày Người tị nạn Thế giới như thế nào? Anh có thể tóm tắt đôi nét?   Thiếu tá Chris Phan: Ba tôi sau chiến tranh Việt Nam năm 1975 đi khỏi nước. Lúc đó, Chris mới 1 tuổi nên mẹ không dám đi sợ tai nạn trên biển này kia. Đến năm lên 8 tuổi, ba Chris mới bảo lãnh mẹ và Chris qua. Lúc đến đây ở bang Indiana, rất bơ vơ, không có người Việt nào cả. Tôi là người Việt Nam và là người Châu Á duy nhất trong trường học. Bên đó cũng không có lớp dạy tiếng Việt. Tiếng Việt của Chris là do cha mẹ dạy ở nhà thôi.  Trà Mi: Nhìn lại quãng đời của một người tị nạn trên nước Mỹ, anh thấy những cam go nhất mà anh đã gặp phải là gì? Thiếu tá Chris Phan: Phần nhiều là lúc mới qua, rất là khó vì khác biệt ngôn ngữ và chủng tộc.  Trà Mi: Với những khó khăn bước đầu đó, cho tới hôm nay Thiếu tá Hải quân Luật sư Chris Phan, một người Mỹ gốc Việt trẻ, sẽ nói gì về người tị nạn Việt Nam nhân Ngày Người tị nạn Thế giới?   Thiếu tá Chris Phan: Chris thấy người Việt Nam rất kiên nhẫn, luôn phấn đấu giúp gia đình, cộng đồng, và quốc gia. Nhân cơ hội này, xin cảm ơn thế hệ cha chú đã cho thế hệ của Chris cơ hội thành công. 38 năm qua cộng đồng mình đã trải qua rất nhiều cực khổ, hy sinh để bắc nhịp cầu để thế hệ của Chris có thể tiếp nối.   Trà Mi: Với cương vị là một người tị nạn, anh thấy người tị nạn Việt Nam trên đất Mỹ có những ưu-khuyết thế nào, những đóng góp của họ đối với quốc gia này ra sao?   Thiếu tá Chris Phan: Rất nhiều. Người Mỹ gốc Việt đã góp phần rất nhiều cho nước Mỹ về quân đội, kinh tế, thương mại.     Trà Mi: Những khó khăn của người Việt tị nạn tại Mỹ có những gì đáng chú ý, theo ghi nhận của anh?   Thiếu tá Chris Phan: Theo tôi, một điểm khó khăn là mình không có một nước gọi là quê nhà. Ví dụ người Nhật, người Đại Hàn qua đây, họ vẫn còn quê nhà ở nước bản xứ để có thể nhìn trở lại được. Người Mỹ gốc Việt rất đặc biệt vì không có nước Việt Nam để quay trở lại.   Trà Mi: Còn về đóng góp, người Việt có những đóng góp nào đáng tự hào so với các cộng đồng khác tại Mỹ?   Thiếu tá Chris Phan: Bây giờ thế hệ trẻ của mình cũng đã bắt đầu bước vô nền chính trị Mỹ. Một ao ước của Chris là mình có thể chọn người xứng đáng có thể đại diện cho cộng đồng mình trong chính trường quốc gia. Nếu tương lai mình muốn thay đổi đường đi của nước Việt Nam, mình phải có người Việt trong Quốc hội Mỹ chẳng hạn, để có thể ngồi bàn thảo ra điều kiện, tạo đường đi hay cơ hội thay đổi tốt cho nước Việt Nam, tốt cho dân chúng ở Việt Nam.   Trà Mi: Ý anh muốn nhắc tới việc giúp cải thiện điều kiện nhân quyền tại Việt Nam?  Thiếu tá Chris Phan: Đúng.   Trà Mi: Vì sao vấn đề nhân quyền Việt Nam là một trong những mối quan tâm của anh, một người trẻ thành công ở Mỹ?   Thiếu tá Chris Phan: Trước sau gì, dù mình muốn Mỹ cách mấy, mình cũng vẫn là da vàng, gốc Việt. Mình bây giờ có nhiều cơ hội và may mắn ở bên đây trong khi dân chúng ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn phải trải qua những cực khổ. Mình thường nghe những tin không tốt ở bên Việt Nam. Cho nên, dù là một sĩ quan Mỹ, sống ở Mỹ, nhưng tôi vẫn luôn nghĩ về Việt Nam và tương lai của người dân Việt Nam.   Trà Mi: Anh có nhắc tới vai trò lãnh đạo của người Việt trong dòng chính để góp tiếng nói mạnh mẽ hơn thúc đẩy nhân quyền Việt Nam. Theo anh, trở lực nào khiến cộng đồng người Việt ở đây chưa mấy có mặt, có tiếng nói trong chính trường Mỹ hoặc có ảnh hưởng đối với Việt Nam?  Thiếu tá Chris Phan: Theo tôi, tại cơ hội cũng chưa đến vì phần đông cộng đồng của mình tại Mỹ từ lúc thành lập tới giờ phải lo đi làm để lo con cái ăn học thành tài. Bây giờ, cơ hội đó đã tới cho thế hệ sau bước lên dòng chính.   Trà Mi: Nhân ngày Người Tị nạn Thế giới, người tị nạn Việt Nam sẽ nói gì với thế giới và với Việt Nam? Nếu có ai đặt câu hỏi này với anh, anh sẽ nói gì?   Thiếu tá Chris Phan: Một điều quan trọng cần nói là mình không bao giờ quên là mình may mắn được đến đây và đừng bao giờ quên phải vươn ra giúp đỡ những người tị nạn sau này và luôn nhớ về nước Việt Nam. Mong một ngày gần đây mình có thể giúp đem lại các quyền tự do cho người dân Việt Nam mà ai trên thế giới này cũng phải có. Theo tôi, mình còn có sức khỏe thì nên luôn nghĩ về người khác. Vì vậy mà tôi mới gia nhập quân đội và cũng vì vậy mà tôi đã đi bộ nguyên năm ngoái để được đắc cử Nghị viên thành phố Garden Grove. Nếu mình có cơ hội, nên làm tốt không những cho cộng đồng, mà cho nước Mỹ và thế giới nữa.  Trà Mi: 20 năm sau vào ngày Người Tị nạn Thế giới, anh mong nhìn thấy những thay đổi gì đối với người tị nạn Việt Nam?   Thiếu tá Chris Phan: Tôi mong lúc đó mình được đoàn kết hơn, nước Việt sẽ có nhiều tự do-dân chủ cho dân chúng, mong có những thay đổi để mình có thể dạy dỗ con cái về nguồn gốc của mình từ đâu.   Trà Mi: Cảm ơn anh rất nhiều đã dành thời gian cho cuộc trao đổi hôm nay. Bấm vào để nghe cuộc phỏng vấn Thiếu tá Luật sư Hải quân Hoa Kỳ Chris Phan Nguồn: http://www.voatiengviet.com/content/nguoi-tre-viet-duoc-trao-giai-hanh-trinh-can-dam/1692275.html
......

Việt Tân không chấp nhận thể chế độc tài

Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân trả lời phỏng vấn của BBC về hoạt động của đảng Việt Tân BBC Đang có sự liên kết ngày càng tăng giữa các nhóm đấu tranh chống Đảng Cộng sản ở trong và ngoài nước, theo Tiến sỹ Nguyễn Quốc Quân, nhà hoạt động dân chủ ở hải ngoại, thành viên trung ương Đảng Việt Tân. Trả lời phỏng vấn BBC tại London hôm 25/6/2013, ông Quân cũng trả lời các câu hỏi quanh nghi ngờ về việc rò rỉ thông tin cũng như 'nội gián' trong lòng tổ chức chính trị đặt văn phòng ở Mỹ. Mở đầu cuộc phỏng vấn, Tiến sĩ Quân, người từng bị bắt giữ hai lần khi hoạt động ở Việt Nam trong các năm 2007 và 2012, bình luận và đánh giá tình hình chính trị ở Việt Nam sau khi gần đây diễn ra các vụ bắt giữ, câu lưu với một số blogger, nhà bất đồng chính kiến trong nước.   TS Nguyễn Quốc Quân: Tôi nhận thấy những việc bắt bớ vừa qua có hai đặc điểm. Đặc điểm thứ nhất là khá đồng loạt sau những vụ xử án rất là nặng và thứ hai nữa là khá dồn dập. "Theo tôi nghĩ có sự thay đổi, nó biểu hiện phần nào, nói hơi quá, sự hoảng loạn của chính quyền Việt Nam hiện thời. Thứ hai, nói lên sự không sợ của những người trí thức cũng như người dân bình thường trong nước." TS. Nguyễn Quốc Quân Theo tôi nghĩ có sự thay đổi, nó biểu hiện phần nào, nói hơi quá, sự hoảng loạn của chính quyền Việt Nam hiện thời. Thứ hai, nói lên sự không sợ của những người trí thức cũng như người dân bình thường trong nước. BBC: Đảng Việt Tân hiện bảo vệ các dữ liệu và tránh xâm nhập các dữ liệu ra sao, nhất là đảm bảo an toàn mạng trước khả năng thâm nhập hệ dữ liệu về đảng viên, hay thông tin về các hoạt động quan trọng, theo ý kiến riêng của ông? Vấn đề bảo đảm dữ liệu quan trọng đó là một trong những vấn đề rất được quan tâm ở trong đảng Việt Tân. Đặc biệt là các giữ liệu về nhân thân của các Đảng viên. Quả thực vừa rồi khi tôi đi về, tôi có đem theo laptop, nếu quý vị có nhìn thấy họ bảo rằng họ tìm thấy trong laptop của tôi tài liệu đấu tranh bất bạo động, hoặc là vân vân. Có vẻ như là sự giữ gìn dữ liệu trong máy vi tính nó có vẻ hơi yếu. Nhưng mà thực sự ra đó là một cách thử tôi xem thử coi cái khả năng kỹ thuật của Công an Việt Nam về vấn đề đào những tài liệu, dữ liệu trong máy vi tính ở mức độ nào. Chúng tôi có năm tầng. Riêng trong máy của tôi có năm tầng, nhưng họ chỉ được tầng thứ nhất và tầng thứ nhì mà thôi. Điều thứ hai là trong đảng Việt Tân có phương pháp gọi là phân cấp thông tin. Nghĩa là ở một ông cấp độ nhất định, thì chỉ có thể biết được một loại thông tin nhất định. Thứ hai nữa là phân nhỏ thông tin. Nghĩa là một người ở vị trí cao nhất cũng không thể nào biết được toàn bộ thông tin. Đó là một trong những cách để bảo vệ. Do đó, nếu tôi có bị bắt giữ đi chăng nữa, và gặp phải trường hợp tra khảo dữ dội như thế nào, tôi nghĩ họ cũng chỉ biết được một phần rất nhỏ của thông tin, đặc biệt của những người trong nước. 'Rò rỉ thông tin?' BBC: Có ‎ý kiến nói Việt Tân có rò rỉ thông tin, do đó nhiều Đảng viên của Đảng ông khi về Việt Nam liền bị bắt, ông bình luận thế nào về ‎ý kiến này? Nếu so sánh số lượng người Việt Tân bị bắt qua quá trình công tác rất dài, thì chúng ta thấy rằng chỉ có một vài trường hợp thôi. Chẳng hạn như trong trường hợp của tôi, tôi về Việt Nam rất nhiều lần, trong khi họ chỉ bắt được tôi vào năm 2007 và 2012. Rồi có những trường hợp như phát mũ nón ở trên cầu Thê Húc, rồi giữa Thủ đô Thăng Long, chúng tôi đã ứng dụng một số phương tiên thông tin nhanh nhậy, một số phương pháp, vừa là để cho cùng chia sẻ những gian nan của đảng viên trong nước, cũng như đồng bào trong nước, mà vừa là để xem thử sự nhạy bén, sự hợp tác của quần chúng xung quanh với công an, Việt Cộng như thế nào. Nó thể hiện rằng công an Việt Nam, cũng như nhà nước Việt Nam không còn được sự hỗ trợ của người dân nữa. Do đó, nhiều công việc ở trong nước, họ sẽ bị bất lực dưới tai mắt của nhân dân đã không còn đứng về phía của chính quyền. BBC: Trong dư luận, kể cả ở hải ngoại, có ‎ý kiến đặt vấn đề nói rằng Việt Tân là một tổ chức do ai đó lập nên để mang lại lợi thế, giúp biện minh cho duy trì quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam, thậm chí có người nói trong Việt Tân có hiện tượng bị “an ninh”, “công an mật” cài vào? Thứ nhất, hãy xem thử hành động của một tổ chức hay một con người nào đó để biết, coi coi họ đứng về phía nào. Tất cả những việc làm của đảng Việt Tân vẫn là chống chế độ độc tài. Do đó mà nếu đảng Cộng sản còn giữ nguyên đó, thì thể chế độc tài sẽ là sự đối đầu đương nhiên của nhiều tổ chức khác nhau, trong đó có Việt Tân. "Sự liên kết đó không nhất thiết phải nhất thống trong một tổ chức mà liên kết hướng về mục tiêu. Và chúng ta cùng bước với nhau, để thực hiện điều đó." TS. Nguyễn Quốc Quân Thứ hai nữa về chuyện cài đặt, tại sao lại không đặt một câu hỏi ngược trở lại, chính trong Quốc hội, chính trong một số cơ quan của nhà nước Việt Cộng vẫn có những người rất đồng ý với quan niệm đấu tranh của đảng Việt Tân, hoặc là chính đó là đảng viên Việt Tân. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng không chủ quan đến nỗi trong Việt Tân không có những người cài đặt vào, nhưng họ cài đặt ở mức độ nào, và họ biết được bao nhiêu thông tin? Tôi tin rằng chắc chắn họ chỉ ở mức độ đảng viên bình thường, và họ không thể có bất cứ một loại thông tin nào cần thiết cho cuộc đấu tranh. BBC: Việt Tân bị chính phủ Việt Nam xếp loại là tổ chức khủng bố, ông tự bảo vệ ra sao trước quan điểm này? Thực sự ra, đảng Việt Tân cũng không cần phải tự bảo vệ. Vì chính quốc tế đã trở lời câu hỏi đó. Và thực sự chính nhà nước Việt Nam hiện giờ cũng cảm thấy sự ghép, sự úp chụp về việc 'khủng bố' của đảng Việt Tân nói riêng và một số đảng khác nói chung, thì điều đó nó cũng đã vô lý. Do đó mà họ đã nhiều lần úp chụp cho ngay chính trường hợp của tôi về 'tội khủng bố', nhưng mà chỉ cần một, hai tháng sau đó, phải đổi thành ra một tội danh khác vì nó rất là trơ trẽn và vô lý, không ai có thể tin được. 'Cơ chế công bằng' BBC: Thưa ông, giả sử trong tương lai, Việt Nam cải tổ thể chế, sửa đổi hiến pháp, lập một Quốc hội lập hiến mới, Việt Tân có sẵn sàng tham gia Quốc hội này hay không? Có sẵn sàng chia sẻ quyền lực với và bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam hay không? Đảng Việt Tân sẵn sàng làm việc với mọi tổ chức khác nhau miễn là không phải ở trong, cho chế độ độc tài. Vậy thì mở ra một cơ chế nào đó, với cơ hội nào đó, để đất nước thay đổi, quan trọng là thay đổi đó có được sự bảo đảm thực sự với sự công bằng để có thể đạt được tự do dân chủ hay không. Do đó nếu đây là một cơ chế do nhà nước cộng sản Việt Nam mở ra khung cửa và mời mọi người vào, chắc chắn nếu chỉ đơn giản như vậy thôi, chắc chắn đảng Việt Tân không bao giờ tham dự. Vì chúng ta không thể nào hợp tác hay thảo luận trong một vị thế mà mình không có quyền lực, không có áp lực nào nhất định. BBC:Theo ông việc một đảng chính trị đặt trụ ở nước ngoài được cho là thường xuyên gửi Đảng viên của mình tới một quốc gia khác hoạt động có vi phạm luật pháp ở đâu không? Ở Mỹ, theo ông có đảng phái chính trị nào từ nước ngoài vào Mỹ hoạt động chống chính quyền Mỹ và được phép hoạt động không? Thứ nhất, Đảng Việt Tân hay nhiều đảng đấu tranh chính trị khác, gọi là có những thành phần lãnh đạo ở nước ngoài, không có nghĩa là họ đang hoạt động ở nước ngoài. Tại vì mọi đảng chính trị, nguồn gốc và phát sinh cũng là từ ở trong nước mà ra. Đảng Việt Tân là một Đảng ở trong nước với những người, nhân sự cùng hợp tác. Vì chúng ta đứng ở trong nước có những lợi thế riêng, mà đứng ở ngoài nước cũng có những lợi thế khác, cái lợi thế đối với quốc tế, lợi thế về vấn đề truyền thông, thông tin. Tất cả các loại công tác, nếu mà muốn được an toàn, vẫn là kiểu liên lạc chéo. Từ trong nước liên lạc với một người bên ngoài, bên ngoài liên lạc với một người khác để bảo vệ an ninh mà thôi và thành phần lãnh đạo ở trong nước của Đảng Việt Tân vẫn phải cố gắng giữ được một vị thế nhất định để có độ an toàn nhất định. Do đó bảo là Đảng Việt Tân là một đảng ở hải ngoại, điều đó hơi quá đáng. Thực sự ra, Đảng Việt Tân hoạt động ở trong nước rất nhiều và mọi nỗ lực của Đảng Việt Tân đều là dồn cho cái sự phát triển lớn mạnh của những người Đảng viên trong nước, cũng giống như những người đồng bào có cùng quan niệm với Đảng Việt Tân ở trong nước. BBC: Việt Tân, hoặc các tổ chức đảng phái, giới bất đồng chính kiến, hoạt động ở trong và ngoài nước có tương lai nào và ra sao trong một Việt Nam ở tương lai gần, trung bình hay xa hơn? Thực sự ra, mong mỏi của tất cả mọi người yêu dân chủ nói chung và những người Việt Nam đã bị đè nén về tự do, về nhân quyền và dân chủ, đều muốn cho đất nước sớm có một đời sống được tôn trọng nhân phẩm, mà không chấp nhận chế độ độc tài. Chế độ độc tài sợ nhất là gì? Chế độ độc tài sợ nhất là sự thật. Vì họ luôn luôn muốn che lấp những điều sai, hay điều trái, để họ làm những việc đó. Họ sợ thứ nhì là họ sợ công lý, sợ người dân cùng nhau đòi lại lẽ phải cho mình. Và thứ ba, họ rất sợ sự liên kết. Tôi đã nhìn thấy những người dân trong nước đã liên kết, và dần dần đã có nhiều tôn giáo khác nhau liên kết với nhau và các tổ chức chính trị liên kết với nhau. Tôi tin rằng ở trong nước, cũng như những người Việt ở nước ngoài, luôn luôn mong có một sự liên kết, nhất là trong giai đoạn này; hơn bao giờ hết, sự liên kết đó rất quan trọng. Sự liên kết đó không nhất thiết phải nhất thống trong một tổ chức mà liên kết hướng về mục tiêu. Và chúng ta cùng bước với nhau, để thực hiện điều đó. Tôi rất lạc quan trong tinh thần liên kết đó, nó thể hiện qua sự tiếp cận của nhiều nhà dân chủ, đối với đảng Việt Tân nói riêng và đối với nhiều đảng khác ở nước ngoài cũng như ở trong nước, nói chung. Tôi rất lạc quan sự liên kết trong thời gian tới mỗi ngày một vững mạnh hơn. Nguồn: BBC    
......

Liên Hội Người Việt Tỵ Nạn tham dự Hội Nghị „Đa Dạng và Hội Nhập tại Âu Châu“

Ngày 04.6.2013 vừa qua ông Nguyễn Văn Rị và ông Trịnh Đỗ Tôn Vinh thuộc Ban Chấp Hành Liên Hội Người Việt Tỵ Nạn đã tham gia Hội Nghị „Đa Dạng và Hội Nhập tại Âu Châu“ do viện Konrad-Adenauer-Stiftung tổ chức tại Berlin.   Trong phần chào mừng ông chủ tịch viện Konrad-Adenauer-Stiftung Tiến Sĩ Hans-Gert Pöttering (cựu chủ tịch Quốc Hội Âu Châu) nhấn mạnh, Hội Nhập không phải là đường một chiều. Hội Nhập là sinh hoạt hai chiều. Hội Nhập có nghĩa là học hỏi của nhau. Kế đến nữ Giảng Sư Tiến Sĩ (GS TS) Maria Böhmer, bộ trưởng đặc trách di dân, tỵ nạn và hội nhập, đã thuyết trình về đề tài „Đa Dạng là Cơ Hội“: Cộng Hòa Liên Bang Đức (CHLBĐ) là một quốc gia di dân. CHLBĐ là một quốc gia hội nhập. Trong số 80,2 triệu dân cư có 15 triệu người ngoại quốc. Trong số 15 triệu người ngoại quốc đó có 8,8 triệu người có quốc tịch Đức. Theo Hội Đồng Chuyên Gia của chính phủ nền kinh tế Đức càng lúc càng trở nên hấp dẫn cho các chuyên viên ngoại quốc, nhất là sau khi đạo luật công nhận các bằng cấp ngoại quốc được thông qua và có giá trị từ tháng tư 2012. Theo GS TS Maria Böhmer điều quan trọng là chúng ta phải tiếp tục sống lối cư xử săn đón và cởi mở với những người di dân cũng như trọng vọng những người có gốc ngoại quốc đã sống và đóng góp nhiều năm cho xã hội Đức, vì họ là những người xây dựng đầu cầu hội nhập và vì họ là những viên đại sứ của hội nhập. Trong phần thảo luận nhóm có 3 diễn đàn với ba đề tài cùng những diễn giả từ các quốc gia Áo, Thụy-Điển, Hòa-Lan, Gia-Nã-Đại, Vương-Quốc-Anh cũng như các tổ chức xã hội, văn hóa, khoa học và kinh tế: „Hội Nhập nhờ học vấn và công việc“; „Góp phần sinh hoạt chính trị và chỗ đứng trong xã hội“; „Tôn Giáo -  Thiết lập khoa thần học Hồi Giáo tại các trường đại học tại Âu Châu“. Liên-Hội Người Việt Tỵ Nạn đã cùng đóng góp chia xẻ kinh nghiệm hội nhập của cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Đức với các tham dự viên của Hội Nghị. Ông  Nguyễn Văn Rị và ông Trịnh Đỗ Tôn Vinh trong phần thảo luận Ông Nguyễn Văn Rị và ông Trịnh Đỗ Tôn Vinh gặp gỡ TS Hans-Gert Pöttering chủ tịch viện Konrad-Adenauer-Stiftung (cựu chủ tịch Quốc Hội Âu Châu) Ông Nguyễn Văn Rị gặp gỡ GS TS Maria Böhmer, bộ trưởng đặc trách di dân, tỵ nạn và hội nhập.   http://www.kas.de/wf/de/17.55168/
......

Việt Luận phỏng vấn ông Lý Thái Hùng

Việt Luận: Ông có thể cho biết mục đích chuyến đi Úc của ông lần này? Lý Thái Hùng (LTH): Trước hết xin cảm ơn Ban Biên Tập Báo Việt Luận đã cho tôi có cơ hội được chia sẻ đến quý đồng hương tại Úc Châu về tình hình đấu tranh của phong trào dân chủ tại Việt Nam và những nỗ lực của đảng Việt Tân. Mục đích chuyến đến Úc Châu của tôi lần này nằm trong khuôn khổ chung là hướng dẫn một số hướng hoạt động cho các cơ sở đảng Việt Tân tại Úc trong tình hình mới hiện nay, đồng thời gặp gỡ một số thân hữu và quý vị nhân sĩ để trao đổi thêm về những hợp tác hỗ trợ cho phong trào dân chủ đang có những chuyển biến tích cực tại quê nhà. Việt Luận: Tình hình chính trị tại Việt Nam có nhiều biến động trong thời gian gần đây, chẳng hạn như sự chia rẽ trong đảng CS, các phong trào đòi hỏi tự do dân chủ, kinh tế xuống dốc, sự bất mãn chế độ của người dân…, ông có thể cho biết đường lối tranh đấu hiện nay của đảng Việt Tân? LTH: Thưa anh, một cách tổng quát, chúng tôi nhìn những diễn biến của tình hình Việt Nam hiện nay là đảng CSVN sẽ không còn có thể tồn tại lâu nữa. Mặc dù đang bị đàn áp nặng nề nhưng phong trào dân chủ Việt Nam đang như ngọn triều dâng với số người tham gia ngày càng nhiều, dũng cảm và triệt để; trong khi đảng Cộng sản Việt Nam lại rơi vào thế bị động, cố thủ trong lô cốt ngõ cụt giáo điều, do những phân hóa trầm trọng không chỉ trong thượng tầng lãnh đạo mà còn từ mọi cấp trước sự phá sản về niềm tin xã hội chủ nghĩa. Hình ảnh tiêu biểu nhất của đảng CSVN hiện nay là tình trạng bè phái trong đảng dựa trên tiền và quyền lợi để khuynh loát lẫn nhau, đang làm suy yếu khả năng kiểm soát của đảng. Do đó để đẩy cho CSVN mất dần khả năng kiểm soát và giúp cho phong trào dân chủ tại Việt Nam lớn mạnh và liên tục tạo áp lực đáng kể, buộc CSVN phải thoái lui, đảng Việt Tân đã và đang tiếp tục tiến hành một số nỗ lực sau đây: Thứ nhất là tiếp tục quảng bá phương thức đấu tranh bất bạo động để giúp cho người dân vượt qua sự sợ hãi, cùng nhau liên kết thành số đông và công khai lên tiếng đòi hỏi CSVN phải đáp ứng các nguyện vọng chính đáng của người dân. Đồng thời đẩy mạnh chiến dịch Tự Do Internet để phá vỡ bưng bít thông tin của CSVN. Thứ hai là liên kết và hỗ trợ các nhà dân chủ, các trí thức yêu nước và các thanh niên sinh viên để cùng đấu tranh trên các mặt trận như giúp dân oan, chống Trung Quốc, chống khai thác Bauxite, giúp công nhân lao động đình công đòi cải thiện cuộc sống. Thứ ba là vận động các tổ chức phi chính phủ, chính giới và bộ ngoại giao các quốc gia để lên tiếng áp lực CSVN phải tôn trọng nhân quyền và ngưng các chính sách trả thù các nhà dân chủ, Blogger. Thứ tư là hỗ trợ tài chánh và phương tiện cho các dân oan, nhà dân chủ, các blogger, các thanh niên sinh viên khi bị sa cơ để không bị chế độ cô lập tài chánh hay ngưng đấu tranh vì thiếu phương tiện. Những nỗ lực của Việt Tân tuy còn rất giới hạn nhưng chúng tôi đã phần nào gây cho CSVN  những áp lực rất lớn trên ba mặt: quốc tế, truyền thông và hỗ trợ phương tiện cho các nhà dân chủ trong thời gian qua. Chính vì thế mà CSVN đã tìm mọi cách tấn công và truy bức các hoạt động của Việt Tân như gán ghép Việt Tân là khủng bố để qua đó tìm cách cô lập tiềm lực hoạt động. Nhưng phải nói là CSVN đã hoàn toàn thất bại và họ  càng tấn công VT khủng bố họ càng bị quốc tế lên án. Việt Luận: Theo ông, để thay đổi tình hình bế tắc tại VN hiện nay, những yếu tố nào là quan trọng nhất? LTH: Yếu tố quan trọng nhất cần phải thực hiện ngay, đó chính là xóa bỏ thể chế chính trị độc tài và tôn trọng ý nguyện của người dân. Thể chế chính trị mà người dân Việt Nam mong muốn thay đổi đó chính là một nhà nước dân chủ đích thực, chính quyền phải tôn trọng và thực thi đúng đắn các quyền căn bản của người dân, dựa trên bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Để đạt được những thay đổi căn bản nói trên, phía CSVN phải thể hiện đầu tiên: -Ngưng ngay các hành vi bán nước quá nguy hiểm hiện nay. Ngưng ngay việc tiếp tay với Bắc Kinh bịt mắt dân tộc Việt Nam về mối quan hệ hữu hảo không hề có. -Thả hết những tù nhân lương tâm, những nhà yêu nước đang bị giam giữ một cách phi lý và phi nhân trong suốt mấy thập niên vừa qua. -Trực tiếp đối thoại TRƯỚC HẾT với giới trí thức, các nhà dân chủ, các nhà yêu nước ngay tại quốc nội một cách nghiêm túc. Các đảng viên Việt Tân chúng tôi trong nước sẽ cùng đứng với các nhà yêu nước trong giai đoạn thử thách cam go đó. -Từng bước bỏ các điều luật đang xiềng xích đất nước như điều 4 Hiến pháp, điều 79, điều 84, điều 88 luật hình sự, v...v... Việt Luận: Quan điểm của đảng Việt Tân như thế nào đối với việc đảng CSVN kêu gọi người dân góp ý thay đổi hiến pháp? LTH: Việc nhà cầm quyền CSVN tung ra chiến dịch sửa đổi hiến pháp lần này nhắm vào 2 mục tiêu: 1/Tạo hình ảnh tôn trọng nhân quyền khi họ đưa hẳn một chương về quyền con người trong hiến pháp mới mà trước đây chưa hề có;  2/Nâng cấp bộ máy hành chánh nhà nước mà cụ thể là gia tăng quyền của chủ tịch nước để kiềm chế bớt sự lộng quyền của thủ tướng vì dần dần vai trò tổng bí thư đảng sẽ bị lu mờ. Khi thấy rõ ý đồ của nhà cầm quyền CSVN như vậy, việc họ kêu gọi người dân góp ý kiến chỉ là tạo dáng vẻ “dân chủ hình thức” hay là mị dân mà thôi. Hôm 20 tháng 5, báo cáo trước quốc hội về tình hình góp ý kiến hiến pháp, ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, cho biết là trong non 5 tháng có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý. Và theo ông Nguyễn Phú Trọng nói trong diễn văn bế mạc hội nghị lần thứ 7 của trung ương đảng khóa XI,  hôm 11 tháng 5 thì  “tuyệt đại đa số” người dân đã tán đồng nội dung sửa đổi hiến pháp 1992. Đối chiếu với chủ trương và những phát biểu của lãnh đạo CSVN về kết quả góp ý, chúng ta  thấy rõ là CSVN không để ý gì đến nguyện vọng thay đổi của người dân. Đây là bản chất sợ thay đổi, nhất là thay đổi chính trị của mọi chế độ độc tài.  Kinh nghiệm của các cuộc cách mạng dân chủ từ thập niên 1980 khi biến cố Đông Âu xảy ra cho đến nay, chính những trì hoãn thay đổi và đàn áp mạnh mẽ của các chế độ độc tài đã làm gia tăng sự căm phẫn và đưa đến tình trạng “tức nước vỡ bờ” kết liễu chính họ một cách chóng vánh. Việt Luận: Theo ông, tình hình chính trị quốc tế hiện nay có những thuận lợi và bất lợi nào trong việc tranh đấu tự do, dân chủ cho Việt Nam? LTH: Tình hình chính trị quốc tế hiện nay rất thuận lợi cho cuộc tranh đấu của chúng ta. Xu thế chính trị của thế giới hiện nay là dân chủ hóa toàn cầu. Đồng thời nhờ cuộc cách mạng tin học với sự ra đời của mạng xã hội, quyền con người hiện được thế giới đề cao hơn bao giờ hết và những chế độ độc tài không còn có thể bưng bít thông tin đối với người dân. Sự kết hợp đấu tranh và phát huy chính nghĩa dân tộc theo nguyên tắc đấu tranh bất bạo động trong thời đại Internet đã như rơm khô bén lửa, bộc phát mạnh mẽ và lan tràn nhanh chóng.    Cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước của người Việt Nam phải nói là được sự đồng tình và ủng hộ của hầu hết các chính quyền, nhân dân và các tổ chức nhân quyền quốc tế. Có ba thành phần quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh của chúng ta gồm: -Những tổ chức nhân quyền quốc tế như Ân Xá Quốc Tế, Quan Sát Nhân Quyền, Ủy ban nhân quyền Liên Hiệp Quốc… -Những tổ chức phi chính phủ (NGOs) giúp gia tăng quyền con người, tự do internet, bảo vệ người dân tại những xứ độc tài như Tổ chức phóng viên không biên giới, Defend for Defender, Media Defend… -Những chính giới và bộ ngoại giao các quốc gia dân chủ như Hoa Kỳ, Úc Châu, Pháp, Cộng đồng EU, Canada…. Đa số những thành phần quốc tế nói trên đều hỗ trợ rất thuận lợi dưới nhiều hình thức như trao giải thưởng, giúp đỡ tài chánh, lên án sự đàn áp hay áp lực chế độ Hà Nội giảm án. Điểm bất lợi nếu có là đối với một số chính quyền vì những quan hệ ngoại giao tế nhị đã chưa có những áp lực đủ mạnh mà thôi.  Tuy nhiên, điều mà chúng ta cũng cần quan tâm để ý là người Việt Nam phải tự lực gánh vác lấy công cuộc đấu tranh của mình, không thể ỷ lại hay mong chờ những giúp đỡ hoàn toàn từ bên ngoài. Việt Luận: Nhiều người có thắc mắc là tại sao những người trẻ trong nước chẳng hạn như mới đây là Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha… chỉ vì thể hiện lòng yêu nước mà bị đảng CSVN kết án từ 6 đến 8 năm tù, trong lúc đó có một số thành viên của đảng Việt Tân từ hải ngoại về VN tranh đấu như TS Nguyễn Quốc Quân (Mỹ), bà Võ Hồng (Úc)… thì chỉ bị bắt giam một thời gian ngắn rồi được thả? Ông có thể giải thích tại sao có sự khác biệt này? LTH: Thưa anh, đây cũng là điều dễ hiểu, vì những người từ nước ngoài như Úc Châu, Hoa Kỳ, Nhật Bản về nước đấu tranh đều mang giấy thông hành của quốc gia liên hệ. Khi bị bắt vô cớ, CSVN phải có nghĩa vụ báo cho tòa đại sứ của quốc gia liên hệ biết và đương nhiên bộ ngoại giao của quốc gia có công dân bị bắt phải làm cho ra lẽ. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân hay chị Võ Hồng vào Việt Nam với giấy tờ hợp lệ và họ bị bắt hoàn toàn không có lý do chính đáng. Vì thế mà chính giới và nhiều tổ chức nhân quyền đã áp lực Bộ ngoại giao Hoa Kỳ hay Úc đòi hỏi CSVN phải thả những công dân này của họ vô điều kiện và cuối cùng CSVN đã phải âm thầm trục xuất. Trong khi đó những nhà dân chủ và những đảng viên Việt Tân sống tại Việt Nam khi bị CSVN bắt giữ, hoàn toàn không có lý do chính đáng; nhưng phải chịu sự ràng buộc và chi phối bởi luật rừng của CSVN. Thế giới lên tiếng, chính quyền nhiều quốc gia can thiệp nhưng CSVN núp sau cái gọi là “không được can thiệp nội bộ” để trốn tránh những áp lực này. Trước ngày CSVN mang sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha ra xử tại Long An hôm 16 tháng 5, Tổ Chức Human Right Watch đã lên tiếng yêu cầu CSVN không thể đưa ra tòa và kết án một người chỉ phân phối truyền đơn chống Trung Quốc, và gọi đó là tuyên truyền chống chế độ. CSVN đã làm ngơ. Lý do là sự lên tiếng của Human Right Watch tuy có tác động trong dư luận nhưng CSVN sợ làm phật lòng Bắc Kinh nếu ngưng hay xử nhẹ vụ án. Điều mà tôi muốn chia sẻ thêm ở đây là từ một nơi an bình, tự do, một số đảng viên Việt Tân về nước tham gia đấu tranh, dù bị bắt và bị cầm tù trong một thời gian ngắn đi chăng nữa, họ muốn bày tỏ tinh thần “đồng cam cộng khổ” với những hy sinh và gian lao của các nhà dân chủ tại quốc nội. Chúng ta hiện rất cần nhiều người từ hải ngoại về nước – dù có bị ở tù một thời gian ngắn – nhưng đó là những cơ hội để chia sẻ những hy sinh của đồng bào quốc nội và nhất là gây sự chú ý của dư luận quốc tế về những hành động vi phạm nhân quyền, đàn áp chính trị của CSVN.  Việt Luận xin cám ơn ông Nguồn: Việt Luận
......

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu - Tuyên Cáo

TUYÊN CÁO V/V KẾT ÁN PHI LÝ ĐỐI VỚI NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN VÀ ĐINH NGUYÊN KHA   Nguyễn Phương Uyên 20 tuổi là sinh viên trường Đại Học Công Nghiệp Thực Phẩm ở Saigon, và Đinh Nguyên Kha 25 tuổi làm nghề sửa máy vi tính ở Long An, trước khi cả hai bị bắt hồi tháng 10 năm ngoái, 2012. Hai bạn trẻ yêu nước này đã bị kết án vì họ đã chống lại hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam và cùng lúc chống đảng Cộng Sản Việt Nam tham nhũng đang phá hoại đất nước như trong hai câu thơ của Nguyễn Phương Uyên: Vào ngày 16 tháng 5, 2013 vừa qua, trong một phiên tòa phi công lý tại Tỉnh Long An Việt Nam, hai người trẻ Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đã bị kết án nặng nề theo cái gọi là “điều 88 Luật Hình Sự” của CSVN về tội “Tuyên truyền chống nhà nước..”. “Vì tổ quốc chống ngoại xâm, Vì tiền đồ dân tộc chống tham nhũng.”   Nguyễn Phương Uyên đã bị kết án 6 năm tù và 3 năm quản chế tại gia. Cô đã can đảm lên tiếng “…Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn”. “Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm..”   Đinh Nguyên Kha bị kết án 8 năm tù và 3 năm quản chế tại gia. Anh cũng đã hùng hồn xác định rằng “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội”.   Khi áp đặt những bản án vô nhân đạo một cách phi lý lên hai bạn trẻ vô tội này, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã chỉ hành xử theo quyền lợi của đảng cộng sản cầm quyền, bất chấp quyền căn bản của con người bị chà đạp. Những bản án nầy một lần nữa cho thấy một cách rõ ràng, không thể chối cãi, là nhà cầm quyền CSVN tiếp tục sử dụng bạo lực qua cái gọi là “điều 88” hoặc “điều 79” của bộ luật hình sự để cố tình triệt hạ những thành phần có tư tưởng hoặc lời nói khác với chế độ CSVN. Phiên tòa ô nhục này đã và đang phản ảnh sự vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng tại Việt Nam, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận và tự do phát biểu.   Đứng trước tình trạng nhân quyền ngày càng tệ hại tại Việt Nam qua sự đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu đồng tuyên cáo: 1. Cực lực phản đối nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã kết án một cách phi công lý và giam cầm trái phép hai bạn trẻ: Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha.   2. Đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, đồng thời phóng thích tất cả những tù nhân lương tâm hiện đang bị giam cầm trong các nhà tù tại Việt Nam.   3. Cực lực phản đối nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã đối xử và trừng phạt một cách tàn bạo đối với những thân nhân của những người đối kháng và những tù nhân lương tâm.   4. Yêu cầu chính phủ của những Quốc Gia dân chủ và các tổ chức Nhân Quyền Quốc Tế tiếp tục lên tiếng can thiệp và yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, và phóng thích tất cả những tù nhân lương tâm hiện đang bị giam cầm trong các nhà tù tại Việt Nam.   5. Kêu gọi tất cả các Cộng Đồng Người Việt tự do trên toàn thế giới tiếp tục lên tiếng yêu cầu các chính phủ dân chủ nơi mình cư ngụ và những tổ chức theo dõi nhân quyền đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, cùng tất cả những tù nhân lương tâm hiện đang bị giam cầm trong các nhà tù tại Việt Nam. Úc Châu ngày 22 tháng 5 năm 2013 LS Võ Trí Dũng Chủ Tịch BCH/CĐNVTD/LBUC Ông Nguyễn Văn Thanh, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDUC/NSW Ông Nguyễn Văn Bon, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDUC/VIC BS Bùi Trọng Cường, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDUC/QLD Ông Đoàn Công Chánh Phú Lộc, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDUC/SA BS Nguyễn Anh Dũng, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDUC/WA Ông Lê Công, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDUC/ACT Ông Lê Tấn Thiện, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDUC/NT Bà Nguyễn Kim Dung, Chủ Tịch BCH/CĐNVTDUC/Wollongong  
......

Chuyện đọc 30/4: Đức - Tình Yêu của một Phóng Viên cho một Dân Tộc nhiều Đau Thương

Cuốn sách "Đức - A reporter's love for a wounded people" (Đức - Tình Yêu của một Phóng Viên cho một Dân Tộc nhiều Đau Thương) của tác giả Uwe Siemon-Netto, một nhà báo kỳ cựu từng cộng tác một thời gian dài với hãng tin AP, với gần 10 năm phục vụ như một phóng viên ở nước ngoài trong đó có Việt Nam. Mới đây ông đã cho xuất bản cuốn sách này, và bản tiếng Việt cũng đang được dự trù xuất bản vào dịp 30-4 năm nay. Dưới đây là đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng ta. Được phép tác giả, dịch giả đã gửi đến DienDanCTM phổ biến đoạn kết này và xin được giới thiệu quyển sách đến quý bạn. Nơi đặt mua sách (sách viết bằng tiếng anh đã xuất bản, và bản dịch tiếng Việt, xuất bản tháng 5. 2013)http://www.siemon-netto.org/ Đức: A reporter's love for a wounded people by Uwe Siemon-Netto (available now) Đức - Tình Yêu của một Phóng Viên cho một Dân Tộc nhiều Đau Thương Tác giả: Uwe Siemon-Netto Dịch giả: Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền (mới xuất bản) *** Đoạn kết: Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng      Uwe Siemon-Netto Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày "giải phóng." Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài. Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ? Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hoà, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy. Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc "giải phóng." Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai? Có phải miền Nam đã được "giải phóng" khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối? Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sàigòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu? Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc "chiến tranh nhân dân." Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì "chiến tranh nhân dân" phải được hiểu là cuộc "chiến tranh của nhân dân." Thực tế không phải như vậy. Đã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Đài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân. Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là "vắng mặt không phép," câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại? Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không. Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là "I have no dog in this fight" (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách "Lời nguyện của nhà báo", tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các goá phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa. Tôi không có mặt vào lúc Sàigòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927). Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả, sinh năm 1975 khi Sàigòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên toà mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sàigòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội. Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ? Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà "tội ác" duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hoà tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki? Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012). Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả. Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau: Giáp: "Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!" Charton: "Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố." Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Ông ta đã đúng và ông ta đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này. Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi một nền văn hoá bê tha hủ hoá đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xoá đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do. Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hoà và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra. Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?
......

Tưởng niệm tháng Tư Đen 2013 tại Frankfurt, Đức quốc

Mặc dù đã cuối tháng 4, cái lạnh 6 độ C vẫn còn vương vấn và từ 3 hôm trước dự báo thời tiết đã cho biết trời sẽ mưa dầm và lạnh vào ngày thứ Bảy, 27.4.13, nhưng không làm sờn lòng hơn 200 người Việt còn trăn trở với hiện tình đất nước, đặc biệt từ các tiểu bang xa như Berlin, Hamburg, München, Bremen,...đã tụ về trước Lãnh sự quán CSVN nằm trên đường Kennedyalle thuộc thành phố Frankfurt / Main để tham dự cuộc biểu tình tưởng niệm biến cố đau thương 30.4 cách đây 38 năm, cũng như hun đúc tinh thần và khẳng định quyết tâm chống lại sự cai trị bạo tàn của đảng Cộng sản Việt Nam, do Hội NVTNCS tại Frankfurt phối hợp với Liên Hội NVTNCS và nhiều tổ chức, đoàn thể người Việt tại CHLB Đức tổ chức. Đặc biệt nhất là sự hiện diện của cụ Nguyễn Đình Tâm tròn 90 tuổi, đến từ Berlin đã được mọi người vỗ tay trân trọng tán thưởng. Đối diện lãnh sự quán CSVN Chương trình sinh hoạt ngày Quốc Hận đã bắt đầu vào lúc 12 giờ 30 bằng nghi thức chào cờ và mặc niệm trong rừng cờ vàng và biểu ngữ. Ông Võ Hùng Sơn, chủ tịch HNVTNCS tại Frankfurt đã khai mạc bằng bài diễn văn ngắn nhắc lại biến cố đau thương cho cả nước đúng 38 năm trước, khi miền Nam tự do mất vào tay khối cộng sản. ĐCSVN sau đó đã tiến hành những chính sách trả thù người dân miền Nam và đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Họ đã biến một miền Nam Việt Nam trù phú thành một nơi đói nghèo như Bắc Hàn. Chính sách hà khắc và ngu dốt đó đã đẩy hàng triệu người phải bỏ nưóc ra đi và đã khiến hàng trăm ngàn người phải bỏ thây nơi rừng sâu, trên biển cả. Nhưng điều đáng nói hơn cả là thái độ khiếp nhược của lãnh đạo ĐCSVN trước tham vọng sát nhập Việt Nam vào đất Tàu của nhà cầm quyền Trung Cộng (TC). Họ đã để TC ngang nhiên xâm phạm hải phận Việt Nam ở biển Đông như vào chỗ không người, để TC khai thác bauxite ở Tây Nguyên, rừng đầu nguồn và nhiều nơi khác gây nguy hại trầm trọng đến an ninh quốc gia. ĐCSVN cũng đã cắt nhượng nhiều phần lãnh thổ Việt Nam cho TC để đổi lấy sự bảo kê giữ chặt quyền lực. Ngoài ra, sự can đảm đứng lên và chấp nhận hy sinh của những con dân Việt Nam tại quốc nội trong những năm qua đã được mọi người ca ngợi, tuyên dương. Tiếp theo là phần phát biểu của các đại diện tổ chức, hội đoàn tại Đức như Cộng đồng Người Việt tại Berlin (cụ Nguyễn Đinh Tâm, 90 tuổi), đảng Dân Tộc (ông Trần Văn Sơn), Hội NVTNCS tại Mönchengladbach (ông Nguyễn Văn Rị), Tu sĩ Thích Ấn Tâm, Hội Người Việt tỵ Nạn vùng Rurhgebiet (2 bạn trẻ Vũ Duy Minh Khoa và Vũ Duy Yến Ngân), Hội Người Việt tỵ Nạn tại Oldenwald (ông Lê Trung Ưng), đảng Việt Tân (ông Nguyễn Thanh Văn), Hội Người Việt tỵ Nạn tại Köln (Liêu Tuấn Tú),…với nội dung xoay quanh việc tưởng niệm nạn nhân của chế độ độc tài cộng sản và tố cáo tội ác buôn dân bán nước của CSVN cũng như kêu gọi đồng bào hải ngoại tiếp tay với đồng bào quốc nội để đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa đất nước và chống ngoại xâm. Đặc biệt một phụ nữ, đại diện cho cộng đồng người Tây Tạng tại Đức cũng đã phát biểu ủng hộ cuộc đấu tranh của người Việt Nam. Những bài phát biểu cũng không quên tố cáo âm mưu chia rẽ cộng đồng người Việt hải ngoại qua nghị quyết 36 nhằm vô hiệu hóa những nỗ lực đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ tự do thực sự. Rừng biểu ngữ hầu hết nói lên khát vọng tự do dân chủ cho đất nước, tố cáo tội ác của ĐCSVN và tham vọng bành trước của Bắc Kinh. Sau những bài phát biểu là những tiếng hô „Đả đảo ĐCSVN buôn dân bán", „Tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam" vang dội một góc phố. Cụ Nguyễn Đình Tâm (Berlin) Ông Nguyễn Văn Rị (Hội NVTNCS Mönchengladbach) Ông Trần Văn Sơn ( Đảng Dân Tộc) Tu sĩ Thích Ấn Tâm Ông Trịnh Đỗ Tôn Vinh (Liên Hội NVTN tại Đức) Anh Vũ Duy Minh Khoa (Hội NVTNCS Ruhrgebiet) Cô Vũ Duy Yến Ngân (Hội NVTNCS Ruhrgebiet) Ca sĩ Thu Sương (đến từ Pháp quốc) Ông Lê Trung Ưng (Hội Người Việt tỵ Nạn tại Oldenwald) Ông Nguyễn Thanh Văn (Đảng Việt Tân) Ông Liêu Tuấn Tú (Hội NVTN tại Köln) Ông Trần Văn các (Hội NVTNCS tại Bremen) Đại diện Cộng đồng Người Tây Tạng Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hùng, Anh Trịnh Đỗ Tôn Vinh (Liên Hội NVTN tại Đức) và cô Vũ Duy Yến Ngân ( Hội NVTNCS vùng Ruhrgebiet) đã đảm nhận phần tiếng Đức để nói cho người Đức hiểu rõ mục đích của buổi biểu tình. Đặc biệt, chị „Hạt Sương Khuya“, ca sĩ Thu Sương từ Paris sang đã góp mặt với những bài ca thiết tha và rực lửa đấu tranh làm cho khí thế cuộc biểu tình càng dâng cao. Cuộc biểu tình cũng đã được trực tiếp truyền thanh vào các diễn đàn trên internet như Paltalk. Trời vẫn mưa, vẫn lạnh buốt, nhưng nhờ những ổ bánh mì thịt của ban tổ chức chuẩn bị sẵn, đoàn biểu tình đã ấm áp lại phần nào. Cuộc biểu tình trước Lãnh sự quán CSVN chấm dứt vào lúc 14giờ 30. Sau đó đoàn biểu tình đã diễn hành đến Lãnh sự quán Trung Cộng với biểu ngữ và rừng cờ vàng cả hai con đường, dưới sự hướng dẫn nhiệt tình và lịch sự của những nhân viên công lực Đức. Trước lãnh sự quán TC Khoảng 14 giờ 30, ban tổ chức nhanh chóng thu dọn cờ, biểu ngữ, dàn âm thanh, … và hướng dẫn đoàn biểu tình di chuyển đến lãnh sự quán TC chỉ cách đó khoảng 300m. Đoàn đi, vàng cả hai con đường, dưới sự hướng dẫn nhiệt tình và lịch sự của những nhân viên công lực Đức. Những bài phát biểu cùng những tấm biểu ngữ lớn nhỏ tố cáo những hành động bành trướng tại biển Đông của TC đã được cất lên, xen kẽ là những tiếng hô đả đảo TC. Tại đây một số biểu ngữ bằng hình ảnh có nội dung rất lý thú cũng được một số tham dự viên trương lên (xin xem hình) nhằm tố các những chính sách dùng hàng giả, sử dụng hacker, hàng độc hại, đánh cắp bản quyền….. Cuộc biểu tình trong công viên nhỏ nằm đối diện với Lãnh sự quán Trung cộng đã thêm phần khí thế với sự góp mặt của Nhóm khoảng 10 người Tây Tạng. Họ mặc áo, choàng cờ vàng lên vai, cầm bảng lưỡi bò bị kéo cắt. Họ hát bằng tiếng Tây Tạng; dù không hiểu người người Việt hiện diện có thể cảm nhận được nỗi đau đớn, uất hận của người dân đã mất nước trong từng ánh mắt và trong giai điệu bài ca. Sau đó họ cầm loa tay và hô rất to những khẩu hiệu chống TC một cách rất nhiệt tình, mạnh mẽ. Nét mặt, cử chỉ, ánh mắt của họ khiến các tham dự viên khác cũng bị cuốn hút theo một cách vừa hào hứng vừa khâm phục. Cuộc biểu tình trước Lãnh sự quán Trung cộng chấm dứt vào lúc 16 giờ.   Sau đó mọi người đã di chuyển về hội trường Volkshaus Enkheim trên đường Borsig Allee nằm cách đó khoảng 10 cây số để dùng bửa cơm chiều sau nhiều tiếng đồng hồ biểu tình ngoài trời mưa lạnh.  Hội thảo và văn nghệ đấu tranh   Hội Phụ Nữ tại Frankfurt đã có nhã ý đãi các tham dự viên bằng một buổi cơm nóng với thịt kho tàu và đầy đủ các loại xà-lách tươi cùng trà nóng, cà phê miễn phí.   Chương trình phần ba bắt đầu cũng bằng nghi thức chào cờ, mặc niệm và dân hương trước bàn thờ Tổ quốc rất trang nghiêm bên cạnh là bức tranh „Tiếc thương“ nổi tiếng.   Sau đó ban chấp hành của Liên Hội (BCH/LH) đã được mời lên bàn chủ tọa để tiến hành phần sinh hoạt thứ ba. Bác sĩ Trần Văn Tích, chủ tịch Liên Hội đã trình bày những công tác đã thực hiện trong năm qua cũng như tình hình tài chánh của LH. Dưới sự điều hợp của BCH/ LH, cử tọa đã biểu quyết chọn nơi biểu tình là Berlin cho ngày Quốc Tế Nhân Quyền 2013 và giữ Frankfurt là nơi tổ chức Ngày Quốc Hận 2014. Cử tọa đã sôi nổi góp ý với BCH/ LH. Một số đại diện hội đoàn và cá nhân đã quyên góp tại chỗ để LH có thêm phương tiện để sinh hoạt. Sau phần hội thảo là phần văn nghệ đấu tranh với sự đóng góp của ca sĩ Thu Sương cùng nhiều tài năng khác đã khiến mọi người không nỡ rời hội trường cho đến tận 22 giờ đêm, kết thúc một ngày sinh hoạt đấu tranh rất có ý nghĩa. NTN Photo von Luu Berlin  
......

Đến thăm ông Albrecht

Ts. Ernst Albrecht là cựu Thống đốc bang Niedersachsen (Ministerpräsident von Niedersachsen) từ 1976 tới 1990, thủ phủ Hannover. Trong thời gian cầm quyền, Ông đã có việc làm nhân đạo để đời với người tị nạn VN tại Đức. Trong giai đoạn cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, thảm cảnh thuyền nhân tị nạn Việt Nam (Boat-People), vượt biển chín phần chết một phần sống, đã làm dư luận thế giới xúc động. Người Việt quyết tâm bỏ nước ra đi trên những chiếc ghe bé nhỏ, theo ước lượng của Cao ủy Tị nạn LHQ, hàng chục ngàn người đã bỏ xác trên biển trước giông bão, hải tặc, đói khát… Ông Albrecht và gia đình Ông không những chỉ xúc động mà chính Ông đã quyết định hành động. Tuyên bố của Thống đốc Albrecht, bang Niedersachsen nhận đầu tiên 1.000 người tị nạn VN đến Đức vào cuối năm 1978, trước hết một phần từ con tầu tị nạn Hải Hồng và sau đó từ các ghe khác, được đa số dân chúng Đức nhiệt tình ủng hộ, là khởi đầu cho các nước Tây Âu nhận thuyền nhân tị nạn VN. Con tầu nhân đạo Cap Anamur, do Ts. Rupert Neudeck khởi xướng sau đó, bắt đầu hoạt động từ mùa hè 1979. Ngày thứ sáu 5.4.2013 đã có cuộc hội ngộ của 4 người Việt với ông Albrecht ở tư gia của Ông tại Burgdorf, ngoại ô Hannover. Bốn người VN đến thăm Ông, đại diện cho 2 thế hệ người Việt tại Đức: Hai người đã tuổi trên 60, thuộc thế hệ 1 ở Đức, từng sinh hoạt trong các lãnh vực Nhân quyền, Văn hóa, Xã hội tại Đức, hai người thuộc thế hệ 2, sinh ra và lớn lên tại Đức, nói, hiểu và đọc được tiếng Việt, ra trường và có cuộc sống tự lập. Thế hệ 2 đến thăm ông Albrecht, như người „cháu“ đi xa về thăm Ông Bà (nội/ngoại). Ông Albrecht sinh năm 1930, năm nay 83 tuổi. Từ vài năm nay Ông bị Alzheimer, (tại VN coi như bình thường, cho rằng vì tuổi già có lúc nhớ, lúc quên, lúc lẫn…) Tiếp „khách VN“ đến thăm, Ông rất vui và cười rất tươi bắt tay từng người. Ông Neudeck (người sáng lập con tầu Cap Anamur*) cho biết cứ nhắc đến „người VN“ là ông Albrecht bao giờ cũng „sáng“ ra, vì quyết định nhận 1.000 người Việt đầu tiên vào nước Đức năm 1978 là  „Lebenswerk“ nhân đạo để đời của Ông. Từ nhiều năm nay, trong các sinh hoạt lớn của người Việt, về thuyền nhân VN, nếu sức khỏe cho phép, Ông đều có mặt bắt tay thăm hỏi từng người. Cuộc hội ngộ hôm nay Ông rất vui, bà quản gia chăm sóc Ông đã sửa soạn cà phê, trà, bánh ngọt thịnh soạn mời „khách“. Ông hỏi thăm từng người từ đâu đến: Stuttgart, Ingolstadt và Hannover. Ông chân tình mời „khách“, cho biết nhà rộng rãi có phòng trống, có thể ở chơi và ngủ lại tại nhà Ông. Người con gái lớn của Ông là bà Ursula Von der Leyen ở chung nhà (đương kim Bộ trưởng Lao động liên bang trong nội các của bà Thủ tướng Merkel, hiện cùng với gia đình đang đi nghỉ dịp Lễ Phục sinh). Điều thích thú ngạc nhiên, trong lúc nói chuyện, Ông rút ví ra, nhân dịp đến thăm „đầu năm“, Ông „lì xì“ cho 2 cháu gái và 2 khách „không còn trẻ“ mỗi người tờ 5,-Euro. Câu chuyện „chính trị“ duy nhất Ông trao đổi với „4 khách VN“ là việc Hòa giải và Liên minh Âu châu, chính sách nầy nước Đức theo đuổi từ ban đầu, làm giảm cuộc xung đột giữa các nước, mang lại hòa bình lâu dài cho Âu châu. Trong phòng khách có một CD-Radio nhỏ, Ông vặn nhạc để mọi người nghe cho ấm cúng trong lúc thưởng thức cà phê-bánh ngọt. Ông cho biết vườn sau nhà rộng, có nuôi gà, có mấy con dê và ngựa. Hôm nay trời đẹp khô ráo, Ông hỏi có thích đi cùng với Ông ra thăm chuồng gà, cho các con thú ăn và đi dạo trong vườn ? Mọi người hoan nghênh đồng ý. Ông chuẩn bị sẵn bánh mì Toast và nước uống cho các con thú. Ông tuy gầy nhưng người còn rất tráng kiện, đi thoăn thoắt. Ông kể chuyện việc chăm sóc vườn, các con thú và hàng ngày đi dạo cho khỏe. Phòng khách có cây dương cầm, Ông hỏi có ai biết chơi nhạc, „cháu gái thế hệ 2“, Christine Lê, sau ít do dự, đã dạo vài khúc nhạc. Ông rất thích thú, vỗ tay tán thưởng, luôn cười rất tươi.   Thời gian đến thăm qua mau, cũng 90 phút nói chuyện và đi dạo với Ông. Làm kỷ niệm, Ông tặng mỗi người một quyển sách của Ông „Erinnerungen, Erkenntnisse, Entscheidungen“ („Những hồi tưởng, những nhận thức, những quyết định“) với chữ ký của chính tác giả. Trước lúc ra về, thì người em ruột của Ông, George Alexander Albrecht, vừa đến trước cửa, từ Weimar lái xe đến thăm anh. Được biết người em nầy còn là một nhạc trưởng nổi tiếng tại Đức. Chia tay chúng tôi chúc sức khỏe Ông. Tiễn khách ra cửa Ông bịn rịn siết chặt tay từng người. Chúng tôi bồi hồi, cảm xúc trước chân tình của Ông, „ân nhân“ của hàng ngàn người VN ở Đức và thầm nghĩ sẽ trở lại thăm Ông ngày không xa. T.C. ghi (10.4.2013) * Từ mùa hè 1979 con tầu nhân đạo Cap Anamur (do Ts. Rupert Neudeck khởi xướng) bắt đầu hoạt động tại vùng biển Đông, đến 1987 đã cứu hơn 11.000 thuyền nhân VN, đa số về Đức định cư. Từ năm 1985, khi chuyện „thuyền nhân VN“ bớt đi tính thời sự, sau các chuyến vớt người trên biển, người Việt vào Đức ngày gặp khó khăn. Ông Neudeck lúc đó có lần vận động „cầu cứu“ ông Albrecht. Với quyền hành Thống đốc bang Niedersachsen lúc đó, Ông cho ông Neudeck biết, nếu gặp khó khăn thì cứ mang thuyền nhân VN đến bang của Ông rồi giải quyết sau. Cách hành xử nhân đạo „không bàn giấy“ (unbürokratisch) của ông Albrecht lại càng làm cho người Đức yêu chuộng nhân đạo và người VN thêm quý Ông.  
......

Cộng đồng Người Việt Tự Do tại Đức biểu tình cho nhân quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Nhân quyền tại VN bị chà đạp và họa mất nước qua sự bành trướng của Bắc Kinh là hai vấn nạn mà không một người Việt Nam yêu nước nào lại không trăn trở. Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền năm 2012, cùng với người Việt khắp nơi trên thế giới, Cộng đồng Người Việt tại Đức đã xuống đường biểu tình để tiếp tục tố cáo sự vi phạm nhân quyền của chế độ CSVN tại thủ đô Berlin và thành phố Frankfurt. Berlin: Vào lúc 11 giờ 30 ngày 8.12.2012, bất chấp cái buốt rét âm 6 độ C, đồng bào đã tụ tập trước tòa Đại sứ Trung quốc tại Märkische Ufer, Berlin để phản đối những hành động bá quyền của Bắc Kinh, mà mới đây nhất là cắt cáp tàu Bình Minh 2 của Petrovietnam chính ngay trên lãnh hải của VN. Nghi thức chào cờ và mặc niệm mở đầu buổi sinh hoạt ngoài trời. Cụ Nguyễn Đình Tâm với 89 tuổi đời, không ngại cơn gió lạnh buốt xương thổi lên từ lòng sông Spree, trước đoàn biểu tình bằng một giọng nói chắc nịch, cương nghị. Cụ lên án hành động xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam của tập đoàn lãnh đạo TC, tố cáo chính sách tham lam bá quyền của nhà cầm quyền cộng sản Trung Nam Hải nhắm vào biển Đông và Việt Nam. Đồng thời cụ cũng lên án việc chà đạp lên nhân quyền một cách thô bạo, thái độ khiếp nhược của đảng cộng sản Việt Nam trước những hành động khiêu khích, cướp bóc, giết hại ngư dân và lãnh hải của quan thầy TC. Cụ cũng không quên mắng những hành vi bắt bớ, giam cầm và kết án những công dân yêu nước của chế độ cộng sản Hà Nội, chỉ vì họ đã không cam tâm làm nô lệ cho ngoại bang mà can đảm chống lại chính sách bành trướng rõ rệt của nhà cầm quyền TC. Nối tiếp lời cụ Tâm là những phát biểu của ông Trần Văn Các, đại diện Ủy Ban Điều Hợp Công Tác Đấu Tranh tại Cộng Hòa Liên Bang Đức, ông Phạm Công Hoàng (Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại CHLBĐ), ông Nguyễn Đình Phúc, Hội phó Hội Người Việt Tị Nạn Cộng Sản Tại Hamburg,...cũng nhằm vào chủ đề chính của cuộc biểu tình. Cờ vàng và đủ loại biểu ngữ: Trung quốc không được đụng đến VN (China,Hände weg von VN), TQ nhưng ngay hành động bành trướng tại VN(China stop Verbreitung Herrschaft in VN ), Hoàng Sa & Trường Sa là của VN (Paracel- & Spratly - insel gehören zu Vietnam), Trung Quốc hãy rút khỏi lãnh hải VN (China…Raus aus dem Seegebiet Vietnams),...Ban tổ chức buổi biểu tình cũng cho phát thanh một đoạn bằng Đức ngữ nhằm giải thích đến người đi đường lý do cuộc biểu tình, đồng thời kêu gọi người bản xứ cùng người Việt chống lại chính sách bá quyền đầy tham vọng của TC tại biển Đông. Xem kẻ là những khẩu hiệu bằng Đức ngữ, Hoa Ngữ "Đả đảo TQ", "TQ cút khỏi Hoàng Trường Sa",..cũng được đoàn biểu tình hô to hướng vào sứ quán Trung Quốc đã tạo được đầy đủ khí thế. Lúc 12g30 phần một buổi sinh hoạt chấm dứt. Mọi người nhanh chóng thu xếp dụng cụ để di chuyển sang tòa đại sứ VC để tiếp tục phần thứ hai. 13g30 cuộc biểu tình phần hai trước sứ quán CSVN bắt đầu bẳng nghi thức chào cờ khai mạc. Tiếp đó ông Nguyễn Thanh Văn, Chủ tịch Ủy Ban Điều Hợp đã nói lên ý nghĩa và mục đích cuộc biểu tình. Khẩu hiệu và biểu ngữ tập trung vào việc mạnh mẽ tố cáo sự dẫm đạp tàn bạo lên bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà ĐCSVN đã long trọng đặt bút ký kết vào năm 1982 nhưng chưa bao giờ tôn trọng chữ ký của chính họ. Đoàn biểu tình hô to những khẩu hiệu "Đả đảo ĐCSVN bán nước buôn dân", "Tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam", ngoài những bài phát biểu về tình hình chung đang lâm nguy trước họa xâm lăng từ phương Bắc và tố cáo thái độ "hèn với giặc, ác với dân" của nhà cầm quyền Ba Đình tại Hà Nội. Nữ sinh viên Vanessa Đinh đọc những đòi hỏi của Liên Hội NVTN tại CHLBĐức của người Việt tị nạn đối với nhà cầm quyền VC. Đặc biệt là phần phát biểu ngắn của cựu sĩ quan quân đội CSVN tên Nguyễn Duy Thế, cấp bậc đại úy, đã rời bỏ hàng ngũ để về với người Việt tự do. Anh cũng lên án sự khiếp nhược của ĐCSVN trước nguy cơ xâm lấn trắn trợn của TC. Buổi sinh hoạt đã chấm dứt vào lúc 16 giờ cùng ngày. Vào ngày 7.12 trước đó, một phái đoàn của Cộng đồng người Việt tự do gồm các ông Phạm Công Hoàng, Trần Văn Các, Trịnh Đỗ Tôn Vinh và bà Lý Thị Khiếu đã đến Bộ Ngoại Giao Đức. Phái đoàn đã được ông Markus Löning, đặc sứ nhân quyền và giúp đỡ nhân đạo và ông phụ tá Felix Schwarz cùng bà Melanie Moltmann đặc trách Á Châu sự vụ tiếp đón ân cần. Cuộc đối thoại diễn ra trong bầu không khí cởi mở và lắng nghe nhau. Để vận động nước Đức lưu tâm hơn về nhân quyền tại Việt Nam, phái đoàn đã trao cho đại diện BNG tập hồ sơ dầy cộm gồm Thỉnh nguyện thư gởi Ngoại trưởng Westerwelle và 125.000 chữ ký thu được khắp thế giới trong chiến dịch "Triệu con tim - Một tiếng nói" do nhạc sĩ Trúc Hồ cùng hơn 100 đoàn thể người Việt tự do khởi động và thực hiện từ ngày 10.10 đến ngày 10.12.2012. Một số anh chị em Hamburg đã tranh thủ ít thời gian còn lại trước khi lên xe trở về để trò chuyện với anh Nguyễn Duy Thế. Anh cho biết, tuy ở cương vị người lính, phải chấp hành lệnh thượng cấp nhưng ai cũng biết và bất mãn với thái độ ươn hèn của lãnh đạo ĐCSVN, mặc tình cho kẻ thù phương Bắc hoành hành trên lãnh hải Việt Nam. Điểm đặc biệt anh thố lộ: ĐCSVN sẵn sàng cho côn đồ trả thù mọi người lính khi có dấu hiệu bất tuân bằng cách hãm hại thân nhân người lính đó. Ngoài ra, anh là người được ĐCSVN đưa lên Văn Giang để thuyết phục bà con tạo điều kiện cho con gái ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng làm ăn dễ dàng trong dự án Ecopark cướp đất của dân. Dân ở đó bảo với anh là họ trọng quân đội như rất ghét lực lượng công an chuyên dựa vào quyền thế để trấn áp, uy hiếp người dân thấp cổ bé họng. Văn Ngọc tường trình từ Berlin. Frankfurt: Phóng sự bằng hình buổi biểu tình.  
......

Pages