2013

BÓNG TỐI NÀO ?

Những ngày này ở Việt Nam hầu như ai mở lời chào hỏi hay bắt đầu làm việc gì cũng thường rào đón trước bằng câu “Đầu xuân năm mới …” rồi mới nói điều gì gì đó. Riết rồi thành quen! Nhiều người nhất là những người trẻ tuổi hơn, những người nghèo hơn hoặc nhân viên cấp dưới còn có thêm điệu bộ khúm núm, lưng khom khom, mặt mũi cười giả lả, hai tay ra cái điệu hơi xoắn quẩy một tí, xuýt xuýt xoa xoa vào nhau để luôn sẵn sàng bắt tay người khác mà họ đã có chủ ý muốn bắt từ trước. Để ý điều này từ bé, thấy quá nhiều người làm vậy, ban đầu thấy hình dáng điệu bộ ấy chẳng có gì là đẹp đẽ, trông còn hèn hèn đúng kiểu xu nịnh, nghĩ đây đúng là dáng dấp tiểu nhân, cứ y như trông phim, kịch Tàu và cả Việt, khi miêu tả kẻ tiểu nhân nịnh bợ thì cái điệu bộ, dáng vẻ ấy đã trở thành hình mẫu mang tính ước lệ. Ấy vậy mà phần lớn nhiều người lại cho rằng cái điệu ấy, cái cung cách ấy là thể hiện sự khiêm tốn, khiêm nhường, lễ độ, lễ phép của con người. Vì thế mà thi nhau học, dạy, và bắt chước ngay từ khi còn nhỏ.  Đã bao giờ người ta đặt câu hỏi nếu đó là điều hay thì tại sao chỉ có một bên trong giao tế phải làm vậy. Có phải tận sâu trong lòng người dân Việt Nam từ xa xưa đến giờ vốn chẳng thích sự bình đẳng hay thậm chí cũng không có khái niệm bình đẳng. Nên đôi khi đây đó, lúc này lúc kia xuất hiện vài ông vua tỏ ý bình đẳng cũng được ghi lại trong sử sách nhưng rồi cũng thành thiểu số tuyệt đối khi mà phần lớn quan lại và cả dân thường đều không truyền bá thực hành được cái phong cách và lề lối tốt đẹp ấy. Phải chăng vì họ không thích và cũng chẳng mấy quan tâm?  Cái cung cách khúm núm xun xoe ấy làm sao mà tốt đẹp cho được khi nó mang đến một cảm giác thấp kém hơn, mất cân xứng hơn khi người ta nhìn vào, và bản thân người có điệu bộ ấy cũng mất đi phần nào sự tự tin và độc lập của mình! Nếu quan sát hành vi và thái độ giao tiếp của người phương Tây sẽ thấy một điều hoàn toàn khác. Họ vẫn có sự khiêm nhường, lễ độ, lễ phép thậm chí là quá lịch sự là đằng khác, nhưng tuyệt nhiên cực kỳ hiếm khi người ta có thái độ tự hạ thấp mình một cách xấu xí và thô thiển như người Việt khi giao tiếp như vậy.  Điều đặc biệt là thái độ giao tiếp đáng xấu hổ này của người Việt lại phổ biến nhất và thể hiện đặc sắc nhất trong giới quan chức cán bộ với nhau, và trong tầng lớp … nông dân ở nông thôn !? Nhưng không có gì phải ngạc nhiên khi nhớ lại lịch sử dân tộc Việt Nam sau năm 1954, khi đoàn quân cách mạng từ chiến khu Việt Bắc tràn về thủ đô Hà Nội và công cuộc Cải cách Ruộng đất lên tới đỉnh điểm thành công chói lọi thì ôi thôi tất cả những điều tốt đẹp nhỏ nhoi trong văn hóa ứng xử của người Việt từ những dấu ấn phong kiến cho đến những nét ứng xử mới du nhập từ phương Tây (chủ yếu là từ nước Pháp thực dân) đều tan biến hoàn toàn. Thay vào đó là những điều xấu xí, và thậm chí là xấu xa trong tính cách vốn đã thâm căn cố đế mọc rễ trong lòng người Việt được lên ngôi tôn vinh chói lọi. Những tính cách này 99% là cách sống của người nông dân tùy tiện và nông cạn chỉ thấy cái lợi trước mắt, + lề lối ấu trĩ ngạo mạn của tầng lớp được coi là khoa bảng của giới Nho học mà chủ yếu là hủ Nho. Nói theo Phan Chu Trinh là “cái phần người dốt nát trong nước thì chiếm 80 phần trong một trăm. Còn cái gọi là người thượng lưu, trung lưu chẳng qua là bọn bát cổ (khoa bảng) đã chiếm hai phần ba. Thật, chẳng biết cái Nho học là gì mà cũng nhắm mắt lại chê càn cái văn minh (vu cho) là mọi rợ.”  Thảo nào Phan Chu Trinh thất bại !  Tôi rùng mình khi đọc những dòng chữ này trong bài Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa của ông luận về thế nào là quân chủ, thế nào là dân chủ mà ông đã đọc ở Hội Thanh niên Sài gòn cuối năm 1925 sau khi ông từ Pháp trở về Việt nam và khởi xướng, chủ trương một cuộc cách mạng dân chủ bất bạo động bằng cách nâng cao dân trí và xây dựng một thể chế dân chủ Pháp trị. Cảm giác rùng mình đó đến từ niềm thích thú của một người đã lâu nay vẫn thấy quá nhiều và quá rõ những nét tính cách xấu xí và xấu xa của người Việt nhưng vì tài hèn sức mọn, tuổi đời ít, trải nghiệm sống đơn điệu nên cũng hèn mà không nói ra nổi. Nay được thấy một người đã dám nói ra điều ấy trước hàng ngàn người, nói một cách công khai mạnh mẽ đầy tự tin, thì trong lòng cảm thấy thú vị và đồng cảm vô cùng !  Nếu Phan Chu Trinh sống lại vào thời này ông sẽ thất bại một lần nữa !  Tại sao ư ? Câu trả lời thật đơn giản. Vì người Việt Nam vẫn vậy. Thậm chí mức độ tồi tệ còn nặng nề hơn gấp bội. Cái bản tính vừa tự ti về sự dốt nát của mình nhưng lại cũng rất sỹ diện, kiêu ngạo, nhất định, dứt khoát không bao giờ thừa nhận là mình dốt, mình kèm.  Đây là hai mặt tất yếu trong tính cách con người dốt nát vậy. Cái này bổ sung cho cái nọ. Cái nọ nuôi dưỡng cho cái này. Tử huyệt của người Việt có lẽ đã được đào khoét qua hàng mấy ngàn năm văn hiến (thì ít) và hủ hóa (thì nhiều) dưới sự cai trị của hàng trăm triều đại với hàng chục dòng họ gia tộc vương quyền. Thời đại phong kiến dài dằng dặc ấy đã để lại cho chúng ta niềm tự hào thì ít, đã thế lại còn nhỏ. Nhưng cái tính cách xấu của người Việt thì lại ngày càng lớn như cái hố khổng lồ, đen ngòm mà ai cũng được khuyến khích cứ nhắm mắt mà nhảy tõm vào đó để nghe các âm vang nịnh bợ thấp kém nhất, đáng hổ thẹn nhất cứ lặp lại mãi, rằng họ là “anh hùng của thế kỷ, lương tâm của thời đại”.  Trong lịch sử, sự thẳng thắn, ngay thẳng, chính trực, khẳng khái của người Việt đều dẫn đến hậu quả thê thảm kinh hoàng, là tuyệt đại đa số hậu quả của những người chọn phong cách sống và làm việc này. Thử điểm lại sử sách có mấy trường hợp mà người sống ngay thẳng chính trực lại được vinh danh và ưu đãi bởi giới vua quan, và thậm chí ngay trong dân chúng thì tình hình cũng chẳng hề tươi sáng hơn cho những người sống ngay thẳng. Đến nỗi có cả một thành ngữ rất phổ biến và có lẽ cũng là thành ngữ nổi tiếng nhất, tiêu biểu nhất cho tính cách người Việt, là “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Thành  ngữ này không chỉ đơn thuần là đúc kết một lề, thói nào đó của con người mà nó được thành lập theo cú pháp là một câu cầu khiến, dạy bảo xúi bẩy người ta làm theo.  Thật đáng sợ, lẽ ra phải là nói thật, nói đúng, nói một cách nhân từ vì lý do nhân đạo ..v..v.. thì lại thành “nói cho vừa lòng”. Vậy vừa lòng là thế nào? Là lấy lòng, được lòng người nghe. Mà người nghe thì thích nghe cái gì? Người nghe thì thích nghe bất kỳ điều gì, trừ cái điều chê trách họ, rằng họ đã không đúng, đã sai, đã lầm, đã ác độc, đã tham lam, đã ngu dại ..v..v..  Đó cũng chính là con đường làm cách mạng của đảng Cộng sản Việt nam. Nói những điều mà tuyệt đại đa số người dân Việt nam thích nghe, bằng những bài, những chiêu trò tuyên truyền với tần suất phát hành khủng bố áp đảo tuyệt đối. Biến tuyên truyền thành một cuộc chiến thật sự đánh vào tâm hồn, tình cảm và ý thức của con người khiến con người ta mê muội, lẫn lộn sai thành đúng, cái cần tránh thì cứ đâm đầu vào,  cái không được làm thành cái nên làm, phải làm với phương châm binh pháp Tôn Tử bất chấp tất cả để đạt hiệu quả. Cộng sản đã lấp đầy cái hố tự ti, trống rỗng của người dân Việt bằng những niềm tự hào (nguồn gốc bần cố nông) và giấc mơ quái đản và hão huyền (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu). Trong niềm tự hào và giấc mơ đó từng góc tối nhất trong tâm hồn và văn hóa người Việt đều được đem ra khoe khoang, thi thố và tôn vinh với những chiến lợi phẩm cụ thể để đổi đời gọi là “chia quả thực”. Nỗi ghê sợ và tởm lợm của tên gọi này quả là tương xứng với cách thức mà những người cộng sản và cả những người đi theo họ đã làm để có được “quả thực” mà chia.  Lẽ ra Phan Chu Trinh phải nói rằng người dân Việt Nam cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay, cái gì cũng đẹp, cái gì cũng giỏi. Nếu cuộc đời, xã hội hay đất nước có điều gì đó còn đau khổ không vừa ý thì tất cả đều là do bị áp bức, bị bóc lột, bị cướp mà ra. Cách tiếp cận của cộng sản thật đắc địa. Họ đã thành công vì đánh trúng vào tâm lý ưa xu nịnh, đố kỵ, thù ghét sự thẳng thắn, ưa ăn vạ, ưa đổ vạ cho người  khác của người Việt. Trên mảnh đất tối tăm ấy của tâm hồn người Việt, chủ nghĩa cộng sản đã sinh sôi nảy nở tốt tươi biết bao với những thành tựu vu khống, giết chóc, phá phách, tàn hại chất cao như núi. Hậu quả kinh khủng nhất của cộng sản gây ra cho Việt nam là làm cho người dân Việt nam vong bản, mất gốc vì đi theo và tôn thờ một thứ chủ nghĩa ngoại lai, một tư tưởng bạo lực chuyên chính và thù địch. Những nét tính cách đơn sơ, hồn nhiên, đáng mến ít ỏi của người Việt đâu cả rồi?  Ngay cả những người dân chủ đã từng đi theo cộng sản đến giờ vẫn tiếp tục cho rằng cộng sản có cái sai, có cái đúng. Nhiều người cho rằng cộng sản gần như hoàn toàn sai lầm, độc ác tuyệt đối. Ấy thế, nhưng cái phần của họ tham gia trong ấy vẫn là đúng, vẫn là đáng kể đến, vẫn có cái gì đó có thể biện minh. Danh hiệu vẫn khoe ra, thành tích vẫn tự hào. Đến giờ ở Việt Nam có lẽ chỉ có một mình ông nhạc sỹ già Tô Hải dám tự nhận là mình đã sai toàn diện, đã hèn toàn cục. Cả sự nghiệp của mình ông cũng vứt bỏ, thậm chí là tự phỉ nhổ, vì tuy (phần lớn) nó đã được tạo nên bằng những cảm xúc có thật trong lòng nhưng là trên nền tảng bị kẻ khác dối đảo, và rồi mình cũng đi lừa dối người khác. Nên suy cho cùng đấy cũng chỉ là đống rác rưởi. Tổng kết sự nghiệp cả cuộc đời mình ông chỉ thừa nhận một tác phẩm duy nhất là nhạc phẩm Nụ cười Sơn cước.  Tôi hiểu cảm xúc và suy nghĩ của ông khi vứt bỏ tất cả những thứ còn lại. Sự can đảm của ông là phi thường và tôi nghiêng mình trước điều ấy. Bởi vì những thứ mà ông vứt bỏ cũng là công sức lao động, là mồ hôi tim óc của ông cố gắng để phục tùng đảng cộng sản, chiều theo bóng tối hèn nhát, dối trá và những ham hố đáng khinh trong tâm hồn mình. Cuối đời, ông đã may mắn nhận được ơn cứu độ là sự giác ngộ và can đảm vứt bỏ chính mình, không phải là tất cả bản thân mà là tất cả những gì đáng hổ thẹn của bản thân để ngẩng cao đầu trong miền mênh mông vô cùng của niềm vui sướng được giải thoát khỏi những xiềng xích nặng nề, xấu xa mà chính mình đã tạo nên cho cuộc đời mình. Điều này chỉ có ông và những người như ông mới hiểu hết được mà thôi.  Suy cho cùng, ta cũng nên cá cược chút ít với cuộc đời!  Tôi rất thích hai câu châm ngôn “Trên đời, chẳng có gì như ý mình (hoàn toàn)” và “Nếu cái gì mình cũng đúng mà đời mình lại như thế này àh !?”. Ngay trong gia đình và bạn bè của tôi cũng có nhiều người có nỗi niềm đau khổ, buồn bã. Nhưng mặc kệ tất cả, đau khổ cứ đau khổ, u sầu cứ u sầu, đố có khi nào thấy họ có thái độ ăn năn về những tội lỗi của họ. Một thái độ nhẹ nhàng, hài hước thừa nhận mình đã sai lầm chuyện gì đó nhỏ nhoi còn là điều hiếm hoi đến lạ lùng. Một chút ngượng ngùng, xấu hổ vì mình đã sai trái ngớ ngẩn điều gì đó cũng hiếm khi được thể hiện. Ai đó nói rằng người Việt nam là như vậy. Tất nhiên đó là một cách nói và họ có quyền nói như thế, tôi không hề phản đối thậm chí còn bảo vệ họ nói ra điều đó theo cách nói vo như thế. Không sao cả nếu bạn không phải vậy, đúng không ?! Nếu chọn cách nói chính xác thì người Việt nam vốn là một dân nhược tiểu, có những tính tốt và nhiều tính xấu. Cái tốt thì cũng chẳng tốt hơn ai. Cái hay thì cũng chẳng hay hơn ai. Nhưng cái xấu thì lại xấu hơn người. Xấu đặc sắc, xấu tràn lan, xấu thâm căn cố đế. Bởi vì nếu cái gì người Việt cũng tốt, cũng hay, cũng đẹp mà nước Việt nam mình lại thế này àh ?!  Đấy, lại dựng ngược lên rồi!  Tôi biết nhiều độc giả đang dựng ngược lên vì khó chịu thậm chí là nổi giận. Không sao! Mục đích của tôi là chọc giận người đọc vì đối với tôi biết nổi giận cũng là một phẩm giá, một tính cách tốt đẹp của con người, miễn là nổi giận đúng việc, đúng nguyên cớ!  Gần đây có bài viết của ông giáo sư nổi tiếng Joel Brinkley của trường đại học danh tiếng hàng đầu thế giới Stanford-Hoa Kỳ, tạo nên phong trào ném đá lớn chưa từng thấy của người Việt trên khắp thế giới. Báo chí trong nước đăng tin rầm rộ vụ ném đá tơi tả này. Tôi, LTCN, đến thời điểm viết bài này, hoàn toàn ủng hộ, cùng phe, đồng tình ..v..v.. (thích dùng từ nào cũng được) với ông giáo sư Joel Brinkley. -          Trước hết là tôi hoàn toàn ủng hộ phần ông ta nói về thói ẩm thực đặc trưng của người Việt là quá thích ăn thịt và ăn tất cả các loại thịt có thể ăn được, với quan điểm rõ ràng đây là một thói ăn uống xấu, không đẹp, man rợ, ô nhiễm môi trường, độc hại, trưởng giả và ngu ngốc (ví dụ như ăn mà không biết lợi ích thế nào, ăn vì sỹ diện, ăn để khoe lắm tiền, ăn để thể hiện khác người, hơn người …) -          Thứ hai tôi hoàn toàn ủng hộ và khâm phục sự thông minh và can đảm của ông giáo sư Brinkley khi ông thừa nhận sai lầm và tuyên bố sửa chữa phần nội dung liên hệ thói quen ăn uống với tính hung hăng của người Việt. -          Thứ ba, ngay cả khi ông Joel Brinkley không thừa nhận sai lầm và cũng không sửa chữa gì thì tôi vẫn ủng hộ và thậm chí là bảo vệ quyền của ông ta được nói ra điều mà ông ta suy nghĩ một cách công khai như vậy. Vì suy cho cùng đây không phải là một hành động vu khống, mà chính xác nó là một nhận định, một quan điểm cá nhân mà thôi. Vấn đề trở nên phức tạp vì ông ta là người nổi tiếng và tờ báo cũng nổi tiếng, nhưng không vì thế mà quên đi rằng cá nhân ông ta hoàn toàn có quyền nói lên quan điểm của riêng mình cách thoải mái và được an toàn. (Báo Tuổi trẻ, Chủ nhật 17.02.2013, page 19 bài Giáo sư Mỹ xin lỗi về bài viết sai sót về Việt Nam) Đọc những bài, những còm (comment) ném đá ông này thấy buồn cười quá! Ô hay, mình không thế thì thôi chứ. Nào ai có quyền bắt một người phải ngồi đếm có mấy người trong bao nhiêu người đã làm gì như thế nào thì mới được phép có phát biểu quan điểm, suy nghĩ. Chính vì cách suy nghĩ chỉ thấy cái lợi trước mắt, không có và cố ý không chịu tư duy logic thống nhất nên người Việt nam luôn rơi vào những cái bẫy do mình tự tạo ra.  Thế giới chống mắt lên mà nhìn người Việt nam nhé ! Dù nghèo, dù đói, dù xấu, dù ô nhiễm, dù oan ức ngút trời nhưng đố ai dám động vào những tính xấu của người Việt. Người nước ngoài nói xấu bị ném đá tơi bời đã rõ, người Việt mà nêu lên cái xấu của người Việt thì còn được nếm đòn kinh hồn táng đởm hơn. Vì cùng là người Việt, là đồng bào, đồng hương nên sẽ có thêm cái tiết mục “phản động, phản bội dân tộc, Việt gian, sính ngoại, ngửi đít tây ..v..v..” Tóm lại là một vụ ném đá tập thể tưng bừng. Bất chấp tất cả, ờ đấy, tao nợ như chúa Chổm, con dân tao nghèo mạt hạng, đến giờ bữa cơm chỉ mong được ăn bát cơm trắng có thêm miếng thịt mỡ bằng ngón tay út, thanh niên nước tao nhìn đểu cũng đủ đâm nhau chết tươi, chồng giận vợ sẵn sàng đổ xăng thiêu con cháy đùng đùng như pháo hoa ngày Tết, tham nhũng thành quốc nạn mà không một ai chịu trách nhiệm hết, nhưng tao vẫn luôn luôn đúng bởi vì tao có súng, nhớ chưa?!  Quả thật là hoàn toàn nhờ vào bạo lực và dối trá mà đảng cộng sản độc tài cai trị dân Việt nam cho đến tận bây giờ. Nhưng cũng phải đau đớn mà thừa nhận rằng bạo lực và dối trá của cộng sản đã được người Việt nam tiếp nhận một cách không thể nói là không hào hứng vì nó đánh trúng và làm đầy những bóng tối trống rỗng trong tâm hồn người Việt. Trong đó, nơi tối nhất chính là tính cách tuy bé mà lại ưa xu nịnh và thích được xu nịnh của người Việt, thể hiện ở sự căm thù tính thẳng thắn trong khi lại rất công khai trắng trợn thể hiện tính hung hăng côn đồ tàn ác.  Quả vậy, người Việt nam từ cổ chí kim luôn nổi tiếng ở những cơ hội hòa bình, ngưng bắn, đình chiến bị đánh mất, bị vứt bỏ, bị nhổ toẹt và ở những cuộc chiến tranh thắng lợi, hơn là ở những công cuộc kiến tạo hòa bình và hòa giải. Dù nói thế nào đi chăng nữa thì số lượng các cuộc chiến tranh và thời gian chiến tranh ở Việt nam là quá nhiều so với chiều dài lịch sử, dân số và tầm vóc lãnh thổ. Và đặc biệt là người Việt lại luôn tự hào vì chiến tranh, dù đó là chiến tranh gì. Đến nỗi lịch sử Việt nam bị đánh đồng luôn với lịch sử các cuộc chiến tranh Việt nam. Đến nỗi những thành tựu văn hóa, nghệ thuật, khoa học phục vụ nhân sinh còn lại với thời gian của người Việt thì phải nghĩ mãi mới ra được. Vậy thì có gì phải dựng ngược lên với ông giáo sư Joel Brinkley này!? Chính thái độ đó của người Việt chúng ta biết đâu lại mang đến niềm vui thầm kín nào đó cho ông ta. Vì rõ ràng chúng ta đang thể hiện một sự hung hăng ghê ghớm đối với một sự kiện chả có gì to tát. Chỉ tổ góp phần chứng minh rằng ông ta, dù sao và ở một mức độ nào đấy, đã đúng mà thôi.  Xin quý độc giả hãy search trên Internet “ăn, mua, bán, thịt thú rừng, Việt nam” ngay bây giờ. Tôi tin chắc quý vị sẽ hạ hỏa và bớt đi ý định ném đá ông Joel và tôi vì bài viết này.  Ôi, người Việt nam! Ôi, Chùa Hương! Ôi, thịt! Hà Nội, 20.02.2013 tức 11 tháng Giêng năm Quý Tỵ Lê Thị Công Nhân http://viet-luan.com/220213/Bongtoinao.html
......

Bọn bành trướng Bắc Kinh xuyên tạc & kỷ niệm ngày xâm lược 6 tỉnh Biên giới của Việt Nam

Đôi lời: Có lẽ đây là cái tát, là câu trả lời rõ nhất, vạch mặt những kẻ vẫn tìm mọi lý lẽ để biện minh rằng phải giữ hòa bình ổn định, tình “hữu hảo”, “16 chữ vàng, 4 tốt” hòng lấp liếm cho ý đồ rắp tâm bán nước, làm tay sai cho Trung Cộng qua hành động đàn áp, ngăn cấm những người yêu nước khi họ tự tổ chức lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Việt Nam đã hy sinh trong Chiến tranh Biên giới 1979 chống quân Trung Quốc xâm lược, cũng như những quyết định ngấm ngầm bịt miệng, tự bịt miệng báo chí không được đưa tin, bài mỗi khi tới ngày 17-2 hàng năm. Bài 1: Phượng Hoàng NGÀY 17.2.1979 NỔ SÚNG MỞ MÀN CUỘC CHIẾN PHẢN KÍCH TỰ VỆ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 17.2.2013 Nguồn:  Nhân Dân Nhật báo (của Trung Quốc) Ngày 17.2.1979, theo lệnh của Quân ủy trung ương, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã buộc phải phát động cuộc chiến phản kích tự vệ với quân xâm lược Việt Nam ở vùng biên giới Quảng Tây, Vân Nam. Sau khi tập đoàn Lê Duẩn lên cầm quyền, xuất phát từ dã tâm xâm lược của chủ nghĩa bá quyền, theo sự xúi giục và hỗ trợ của những kẻ khác, đã bội phản tín nghĩa, điên cuồng xua đuổi, cướp đoạt, bức hại Hoa kiều ở Việt Nam và người Việt Nam là người Hoa, liên tục tiến hành các hành động xâm phạm và khiêu khích vũ trang, đồng thời đưa quân đi xâm chiếm thủ đô Campuchia, gây nguy hại và phá hoại nghiêm trọng nền hiện đại hóa của nước ta và an ninh biên giới. Trước tình hình không thể chịu đựng thêm được nữa, chính phủ Trung Quốc quyết định tiến hành cuộc chiến đấu phản kích tự vệ, bảo vệ biên giới. Cuộc chiến phản kích tự vệ bắt đầu từ 17.2 đến ngày 16.3 thì kết thúc, bộ đội biên phòng của ta đã khống chế được 3 tỉnh Lạng Sơn, Cao bằng, Lào Cai và 17 huyện thị, làm 4 sư đoàn và 10 trung đoàn chính quy thiệt hại nặng nề, tiêu diệt 3, 7 vạn quân Việt Nam, tịch thu rất nhiều trang bị vũ khí và vật tư tác chiến, cho kẻ xâm lược Việt Nam một bài học và sự trừng phạt nặng nề. Ảnh : Trong cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam, các chiến sĩ đang ký tên trên lá cờ đỏ có dán dòng chữ “Tổ quốc trong chúng ta” tự làm —- Bài 2: hxcy1965.blog.163.com KHẮP NƠI TRONG CẢ NƯỚC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG KỶ NIỆM 34 NĂM THẮNG LỢI CUỘC CHIẾN PHẢN KÍCH TỰ VỆ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 20.2.2013 Ngày mồng 8 tháng Giêng [âm] tức ngày 17.2.2013 lại trúng vào ngày kỷ niệm lần thứ 34 cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam, khắp nơi trong cả nước tổ chức các hoạt động kỷ niệm 34 năm thắng lợi cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam. Đại diện cựu chiến binh tham chiến tham gia vào hoạt động đã nói chuyện ôn lại lịch sử trận tác chiến với Việt Nam, tổng kết ý nghĩa của trận tác chiến với Việt Nam, lắng nghe hoài niệm của các cựu chiến binh may mắn sống sót về những chiến hữu đã hi sinh, kể lại tình cảnh chiến đấu nơi chiến trường cùng các chiến hữu anh hùng liệt sĩ, bày tỏ lòng yêu nước của các cựu chiến binh tham chiến, ca ngợi những chiến tích to lớn của các anh hùng liệt sĩ, đả thẳng vào hiện tượng xấu lãng quên các anh hùng của xã hội ngày nay, kêu gọi xã hội tăng cường giáo dục lòng yêu nước, yêu quý các anh hùng, tôn trọng các anh hùng, không quên lịch sử, luôn nhớ các anh hùng liệt sĩ! * Xem thêm hình ảnh tại link: http://anhbasam.wordpress.com/2013/02/22/1631-bon-banh-truong-bac-kinh-x...
......

Cá không nghe muối cá ươn

Đọc bài Bài toán bauxite sai tày hoày (tại đây) mà cười ra nước mắt: “Nhà máy alumin Tân Rai sắp đi vào hoạt động chính thức, mà Tập đoàn than – khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) vẫn chưa lên được phương án tối ưu cho con đường vận chuyển bauxite, trong khi hiệu quả kinh tế gần như là không có.” Ông Nguyễn Thành Sơn, giám đốc ban Quản lý các dự án than đồng bằng sông Hồng cho biết:“Giá thành alumin xuất xưởng tại Tân Rai nếu đạt 100% công suất cũng phải xấp xỉ 375 USD/tấn… chủ yếu dành cho xuất khẩu sang Trung Quốc, Malaysia. Nhưng do giá xuất khẩu theo đàm phán chỉ đạt 340 USD/tấn nên dù xuất khẩu vẫn lỗ.” Bà Phạm Chi Lan đã chi ra sự tào lao của dự án này: “Vinacomin đã không trung thực trong bài toán kinh tế bằng cách gạt một số hạng mục đầu tư ra ngoài để khẳng định, nếu làm sẽ có lãi. Nhưng lúc bắt tay vào triển khai, Vinacomin lại đòi hỏi nhà nước phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng đường sá để vận chuyển sản phẩm ra cảng phục vụ xuất khẩu. Đó là cách tính toán rất “cùn” trong kinh doanh, bởi khi đầu tư dự án, nhà đầu tư phải tính cả chi phí vận chuyển chứ không thể bỏ ra ngoài như Vinacomin.Chưa nói xuất khẩu sản phẩm của dự án lại phụ thuộc vào một thị trường, thì hiệu quả kinh tế cũng rất bấp bênh. Tóm lại, dự án không thể đem lại hiệu quả kinh tế…” Tóm lại như cảng Kê Gà thì dự án Bauxite ở Tân Rai cũng cần phải đình chỉ ngay, càng đâm lao theo lao càng lún sâu vào nợ nần không thể thoát ra được. Một dự án gây bất bình trong dân chúng, chẳng ai thèm nghe. Đại tướng hai lần gửi thư can gián, chẳng ai thèm nghe. Kiến nghị của 2746 nhân sĩ trí thức (tại đây) yêu cầu đình chỉ dự án này, cũng chẳng ai thèm nghe. Thậm chí các trí thức đã lập ra một trang mạng Bauxite Việt Nam chuyên đề phản đối về dự án này, cũng chẳng ai thèm nghe. Đã không nghe lại còn vu cho nó là trang mạng phản động của ” bọn cơ hội”. Bây giờ đã trắng mắt ra chưa? Câu hỏi đặt ra là: Ai chịu trách nhiệm về dự án này? Tập đoàn than – khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) thì rõ rồi. Thế còn Chính phủ thì sao? Quốc hội thì sao? Ai đỡ đầu cho dự án này đều phải chịu trách nhiệm, trước hết người đứng đầu Chính phủ đó là thủ tướng. Tới đây nhất định Thủ tướng phải giải trình vấn đề này trước Quốc hội. Tất nhiên Thủ tướng sẽ nhận trách nhiệm về Bauxite Tây Nguyên, không nhận không xong với dân chúng. Nhưng cũng như Vinashin, tất nhiên Thủ tướng cũng sẽ nói:”Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai”. Rứa đo rứa đo Có khi mô Thủ tướng ân hận về việc giải thể Ban nghiên cứu và Tổ Nghiên cứu về kinh tế đối ngoại của Thủ tướng không hè?  Chắc không! Vậy nên có câu ca rằng: Cá không nghe muối cá ươn/ Thủ tướng không nghe trí thức  trăm đường Thủ tướng hư. Rứa đo rứa đo. NQL http://quechoa.vn/2013/02/21/ca-khong-nghe-muoi-ca-uon/#more-33014
......

Tưởng niệm người chết để nhắc nhở người sống và sống sao cho nhân bản với nhau trong tương lai

Nguyễn Chí Đức - Bỗng nhiên tôi chạnh lòng nghĩ đến những người yêu nước của các đảng phái quốc gia thời kỳ chống Pháp bị Cộng Sản dẫn dụ và cuối cùng bị thủ tiêu chẳng qua do muốn độc bá, độc quyền yêu nước. Tôi cũng suy tư tới những người lính Việt Nam Cộng Hòa. Nói chung cùng là người Việt trong sâu thẳm ai chẳng có tình yêu gia đình, gắn bó với quê hương, tình tự dân tộc. Có ai muốn bỏ mạng, mất một phần máu xương nơi chiến trường nhưng rồi cuối cùng do thua trận mà bị tuyên truyền là ngụy, con cháu bị ghi lý lịch đen tới ba đời đâu cơ chứ? Tàn dư phong kiến vẫn được áp dụng trong chế độ Cộng Sản. Vậy phải chăng chế độ hiện nay là một chế độ phong kiến trá hình trong khi lúc nào cũng ra rả tuyên truyền về cách mạng, về dân chủ?... *****  Dạo trước ở cty tôi có hay nói chuyện phiếm với một anh đồng nghiệp là công an chuyển ngạch về các vấn đề xã hội. Có lần tôi nói với anh này rằng chuyện tôn vinh ngày thương binh liệt sỹ 27-7 của chế độ Cộng Sản chủ yếu để giáo dục cho thanh niên, các sỹ quan quân đội đang cắm chốt tại biên giới, hải đảo chắc tay súng, vững ý chí chiến đấu bảo vệ tổ quốc mà thôi. Chứ còn đối với những người đã mất họ chẳng bao giờ mong và nghĩ đến một ngày nào đó được vinh danh ở các tượng đài, nghĩa trang liệt sĩ. Những người ngã xuống vì tiếng gọi non sông, tình yêu quê hương đất nước mà nhập ngũ hay xung phong khi có lệnh tổng động viên chứ không phải vì chủ thuyết nào mỹ miều hay bả danh lợi gì đó. Tuy nhiên đạo lý tốt đẹp của người Việt nhằm tôn vinh những người vị quốc vong thân trong môi trường Cộng Sản cũng bị méo mó, bị toan tính nhằm mục đích chính trị cho các thành phần lãnh đạo hơn là cho đại cuộc của quốc gia-dân tộc.  Chẳng nói đâu xa, những năm gần đây chính quyền Cộng Sản có chiều hướng chỉ ca ngợi, tôn vinh những người trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Pháp trong khi đối với những thương binh, liệt sĩ chống Tàu trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc rất hiếm khi được phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng và sách giao khoa dạy cho con trẻ. Nếu chẳng đặng đừng phải đề cập thì họ không dám nhắc đến 2 từ “Trung Quốc”.    Còn đối với người sống ở miền Nam hay Hải ngoại thì thực tế hiện nay phân nửa là những người có liên quan dù ít hay nhiều đến chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì chính quyền Cộng Sản ca ngợi thái quá về tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, đại thắng mùa xuân 1975 khiến cho cuộc chiến tranh này vẫn tiếp tục gây ra dư luận cho đến ngày hôm nay. Tôi cho rằng họ cố tình gây chia rẽ khiến cho bên thua trận bị tổn thương nhưng bên thắng trận cũng không lấy làm vẻ vang và tự hào gì khi sự thật đã được bạch hóa nhan nhản trên Internet. Ở đây tôi nhấn mạnh là thua trận và thắng trận, chứ còn về đường lối chính trị theo xu hướng thế giới có khi phải nói ngược lại: bên thua trận thì thắng chung cuộc, còn bên thắng trận thì thua chung cuộc. Những người yêu nước đặt vòng hoa tưởng niệm tại tượng đài vua Quang Trung. Ảnh : JB Nguyễn Hữu Vinh Hôm nay tại Hà Nội, tôi có may mắn hòa cùng mọi người đứng trước tượng đài vua Quang Trung tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc trước Trung Quốc xâm lược. Nguyên nhân phải đến đây vì lực lượng bảo vệ của quân đội tại đài tưởng niệm liệt sĩ trên đường Bắc Sơn gây khó dễ khiến cho buổi dâng hoa, thắp hương không được diễn ra. Có ý kiến kéo nhau ra Gò Đống Đa để thành kính mong hồn thiêng sông núi, vua Quang Trung, các vị anh hùng dân tộc phù hộ độ trì nhằm bảo vệ đất nước thoát khỏi sự ác hiểm của ngoại bang cũng như nội thù.   Bỗng nhiên tôi chạnh lòng nghĩ đến những người yêu nước của các đảng phái quốc gia thời kỳ chống Pháp bị Cộng Sản dẫn dụ và cuối cùng bị thủ tiêu chẳng qua do muốn độc bá, độc quyền yêu nước. Tôi cũng suy tư tới những người lính Việt Nam Cộng Hòa. Nói chung cùng là người Việt trong sâu thẳm ai chẳng có tình yêu gia đình, gắn bó với quê hương, tình tự dân tộc. Có ai muốn bỏ mạng, mất một phần máu xương nơi chiến trường nhưng rồi cuối cùng do thua trận mà bị tuyên truyền là ngụy, con cháu bị ghi lý lịch đen tới ba đời đâu cơ chứ? Tàn dư phong kiến vẫn được áp dụng trong chế độ Cộng Sản. Vậy phải chăng chế độ hiện nay là một chế độ phong kiến trá hình trong khi lúc nào cũng ra rả tuyên truyền về cách mạng, về dân chủ?    Tôi cũng liên tưởng đến cuộc nội chiến giữa nhà Tây Sơn – nhà Nguyễn, trớ trêu làm sao ông Tổ gần (nhánh đi vào Nghệ An) của tôi hận Tây Sơn đến mức ghi hẳn vào gia phả. Có lẽ bối cảnh thời đó loạn lạc khiến cho các anh tài khắp các vùng miền nổi lên tập hợp lực lượng và chuyện người thắng, kẻ thua là lẽ dĩ nhiên. Nhưng rõ ràng ở bối cảnh bây giờ, lí trí bình thường nhất cũng hiểu Quang Trung là anh hùng dân tộc có công đánh đuổi quân Thanh xâm lược. Ngược lại mới vài năm gần đây khi chưa từ bỏ ĐCSVN, tôi vẫn đủ lý trí để phân tích không phải cứ cái gì Cộng Sản tuyên truyền là giặc, là phản nước hại dân có nghĩa là đúng mà có khi phải hiểu ngược lại chẳng qua muốn độc bá nên họ có ý đồ bôi nhọ người ta.    Thực ra bài viết này tôi muốn gửi gắm cho những vị lãnh đạo Cộng Sản đang cầm quyền hơn là bạn đọc thường quan tâm đến các vấn đề chính trị vì tôi cam đoan là họ thừa hiểu lịch sử, thừa hiểu mọi vấn đề hơn tôi do họ từng là người trong cuộc có điều kiện tiếp cận thông tin. Nhưng theo xu thế thời đại họ không thể ham hố quyền lực mãi được. Càng rắp tâm có ý định đó, càng dùng công an để đàn áp dân lành, bịt miệng những tiếng nói tự do thì chế độ Cộng Sản càng mất dần đi những tình cảm còn sót lại của những người dân đen vốn không bị những áp bức bất công gây nên, còn phần lớn xã hội thì ai ai cũng chán nản lắm rồi. Hơn nữa, những người là cựu chiến binh, lão thành Cộng Sản chân chính cũng không thể ôm khư khư, hoài niệm về quá khứ trong khi xã hội thì đã thay đổi khác xa với thời của họ dấn thân. Đó là những người có lương tri, nhân phẩm của người Việt. Họ chẳng dại gì làm bình phong cho các ông lãnh đạo dùng người này, người kia có uy tín để trấn an dư luận. Theo suy nghĩ của tôi thì họ thay vì có danh là nhân sĩ, trí thức của chế độ chỉ có tiếng vang nhất thời do Cộng Sản ca tụng mà phải là Nhân sĩ-Trí thức dấn thân của dân tộc thì tiếng thơm muôn thở và được các tầng lớp nhân dân kính trọng.    Chúng ta tưởng niệm cho người chết dù là anh hùng liệt sĩ, bỏ mạng nơi biển cả đi tìm tự do, oan hồn tức tưởi trong Cải Cách Ruộng Đất... nhưng chính là nhắc nhở cho người sống để mà yêu thương, để mà hàn gắn, để mà tha thứ cho nhau. Vì xét chung cuộc chúng ta không đủ mạnh về tư tưởng, đủ tự lực-tự cường và đủ yêu thương lẫn nhau khiến cho các nước lớn chi phối và áp đặt. Từ đó dẫn đến việc chúng ta bị chia rẽ theo bên này hoặc bên kia, cuối cùng là chém giết lẫn nhau và hệ lụy đó còn kéo dài cho đến ngày hôm nay. http://donghailongvuong.wordpress.com/2013/02/17/tuong-niem-nguoi-chet-de-nhac-nho-nguoi-song/
......

Chủ tịch Trương Tấn Sang khẳng định hệ thống chính trị của chúng ta ” Không dám nói lên sự thật”

“Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Lời Kinh Thánh) Trên báo Sài Gòn giải phóng online ngày 13-02-2013, trong bài : “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Vũ khí của chúng ta là dám nói lên sự thật” có đoạn viết như sau: “Khi nghe bà Phan Thị Tươi giới thiệu chồng mình – ông Hoàng Thái Lai, đã nghỉ hưu nhiều năm nay, hiện là Bí thư Chi bộ khu phố 2, phường Thảo Điền (quận 2), Chủ tịch nước hỏi: “Đồng chí có gửi gắm gì không?”. “Tôi mong mỗi cán bộ lãnh đạo hãy làm đúng những gì đã nói”. “Đúng, làm đúng những gì đã nói đang là thách thức rất lớn đối với chúng ta hiện nay” – Chủ tịch nước chia sẻ. “Sau khi lắng nghe những phát biểu nói lên kỳ vọng của các thành viên trong gia đình GS-TS Phan Thị Tươi, Chủ tịch nước nói: “Từ trước đến nay, chúng ta có “cái bệnh” rất lớn là không dám nói lên sự thật. Hôm nay nghe đồng chí bí thư chi bộ khu phố nói, tôi thấy đấy là sự thật, một sự thật ở ngay trong dân. Chắc chắn người dân đã gửi gắm rất nhiều vào đồng chí bí thư, nên hôm nay tôi mới nghe được gửi gắm của dân mong muốn mỗi cán bộ, đảng viên phải làm đúng những gì đã nói. Đây là tiếng nói của lòng dân, Đảng hiểu dân nói mới là thước đo niềm tin chính xác nhất. Nhiều cán bộ không muốn nghe sự thật và không dũng cảm nói lên sự thật là vì lợi ích…” ( hết trích – chữ in đậm do TMH nhấn mạnh). Có lẽ, từ ngày Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) nhảy ra cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim ngày 19-8-1945, chưa từng có một vị lãnh tụ nào dũng cảm đứng ra nói với toàn thể đồng bào trong ngoài nước về CÁI BỆNH RẤT LỚN của những người cộng sản là CĂN BỆNH DỐI TRÁ (tức: “ không dám nói lên sự thật”) như ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong dịp tết Quý Tị này như vừa dẫn: “CHÚNG TA CÓ “CÁI BỆNH RẤT LỚN LÀ KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT” Xin xem định nghĩa đại từ CHÚNG TA trong từ điển: “Chúng ta: Bản thân mình cùng với người đối thoại: Chúng ta đi đâu bây giờ, vì tương lai con em chúng ta” (Đại từ điển tiếng Việt –NXB Văn hóa – Thông tin- 1999, trang 400) Như vậy, hàm nghĩa từ CHÚNG TA nơi câu nói của chủ tịch nước Trương Tấn Sang bao gồm chính ông và vợ chồng người đảng viên ông đến thăm, nói rộng ra là chính chủ tịch nước và tất cả mọi người Việt Nam đọc báo đều cùng mắc cái  bệnh rất lớn là bệnh dối trá này. Nhưng đa số nhân dân đâu có cơ hội để mắc bệnh này, vì họ, tức nhân dân, tức người dân thường, tức tư nhân không có quyền ngôn luận, tức không có quyền ra báo. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, người tự xưng là đày tớ của nhân dân mới có quyền phát ngôn trên 700 tờ báo nói, báo viết, báo hình mà thôi. Cho nên từ “chúng ta” trong nội hàm của câu nói trứ danh này của ông Trương Tấn Sang chính là nhằm nói rằng: hệ thống cầm quyền, hệ thống chính trị tức Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang mắc CÁI BỆNH RẤT LỚN LÀ KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT. Mà không dám nói lên sự thật chính là “cái bệnh rất lớn” là nói dối vậy. Nếu câu nói này (chúng ta có cái bệnh rất lớn là không dám nói lên sự thật) phát ra từ một người bất đồng chính kiến thì chắc sẽ bị công an bắt giam vì điều 88: tuyên truyền nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi câu nói RẤT CHÍNH XÁC này phát ra từ miệng vị chủ tịch nước Trương Tấn Sang lại là một vấn đề không nhỏ, không phải nói để chơi. Đó là nhận thức quan trọng nhất mà một lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt Nam – ông Trương Tấn Sang – đã dũng cảm nói lên sự thật rất đáng buồn rằng: hệ thống cầm quyền của những người cộng sản là một hệ thống thiếu trung thực, lấy sự dối trá làm bản chất. Ai ai trong thế kỷ thứ 21 này cũng đều biết chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của C.Marx và F. Engel bắt nguồn từ chủ nghĩa xã hội không tưởng của các nhà triết học tiền Mác-xít: Saint Simon, Charles Fourier, Robert Owen… là những hệ thống xã hội không tưởng, ảo tưởng, không có thật, bịa đặt… Một xã hội xã hội chủ nghĩa tiến tới thiên đường cộng sản là một xã hội phi lý, phi nhân – nơi chỉ có cái thiện mà không có cái ác, chỉ có cái tốt mà không có cái xấu, chỉ có cái thật mà không có cái giả, tức là một xã hội phi biện chứng. Trong xã hội giả tưởng đó, người ta sống theo nguyên tắc vô cùng phi lý: làm theo năng lực (có  hạn) hưởng theo nhu cầu (vô hạn). Trong xã hội bịa đặt phi biện chứng đó, nhà nước bị triệt tiêu, biên giới Việt Nam và Trung Hoa bị xóa bỏ (tất nhiên Việt Nam sẽ thành quận huyện của Tàu, đó là xã hội cộng sản hay sao?). Ở Cái xã hội bịa đặt khủng khiếp có tên là xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản ấy, quyền tư hữu bị xóa sổ, cá nhân bị xóa sổ, nhân tính bị xóa sổ, gia đình bị xóa sổ, quốc gia bị xóa sổ, tôn giáo bị xóa sổ, cái riêng bị xóa sổ, đất nước bị xóa sổ, dân tộc bị xóa sổ… Liên Xô sau 74 năm đi tìm cái xã hội chủ nghĩa không tưởng mà tìm mãi không thấy, chỉ thấy cả đất nước rộng bằng một phần sáu địa cầu biến thành trại tập trung với máu và nước mắt, với gần 100 triệu người bị giết hại vì lý thuyết đấu tranh giai cấp duy ác Mác – Lê…  Nay Liên Xô đã quay lại con đường tư bản chủ nghĩa để đi cùng đường với nhân loại… Trung Quốc đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội dã man từ năm 1978 để xây dựng xã hội theo mô hình tư bản, mô hình thị trường; nhưng vẫn mạo danh xã hội chủ nghĩa để đỡ bẽ mặt vì Trần Độc Tú, Cù Thu Bạch, Mao Trạch Đông đã sai lầm vô hạn khi áp dụng chủ thuyết duy ác Mác-Lê vào Trung Quốc. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc cuối năm 2012 đã không còn nhắc đến Mác-Lê-Mao… Đảng Cộng sản Pháp trong đợt đại hội cách đây mấy ngày, đã good bye cờ búa liềm là cờ của nước Liên Xô trước đây… Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo từ năm 1986 đã chôn chủ nghĩa xã hội để xây dựng chế độ tư bản nhưng vẫn còn giữ cái đuôi dối trá rất vô nghĩa là “ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”… Mùa tết năm nay, qua lời thú nhận của chủ tịch nước Trương Tấn Sang về hê thống xã hội cộng sản của ông và các ông vốn là một hệ thống dối trá “KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT” chính là cuộc thay đổi tư duy đáng trân trọng của giới lãnh đạo Việt Nam… Khi cả thế giới đều biết chủ nghĩa xã hội kiểu quốc tế ba của Mác-Lê là một chủ nghĩa ảo, một học thuyết bịa đặt , dối trá từng giết hại hàng trăm triệu người trên thế giới thì khi đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta lại phải mang cả khối dối trá trên mình, liệu có trung thực, có đúng đắn hay không: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”. Chủ nghĩa xã hội = sự không có thật, chẳng lẽ quốc hiệu của ta lại ra thế này ư: CỘNG HÒA KHÔNG CÓ THẬT VIỆT NAM”? Từ sự nhận thức trên mang tính cách mạng của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chúng tôi hy vọng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ nhanh chóng từ bỏ những khái niệm dối trá, chủ nghĩa dối trá để trở về cùng đường với dân tộc và nhân loại. Chúng tôi xin trích hai đoạn ngắn trong bài viết của mình năm 2010: “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước” (là tham luận của TMH trong đại hội nhà văn Việt Nam, nhưng không được phép đọc, đã post lên mạng trước đại hội) làm phần kết của bài viết này: “Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử…. ….Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi”. Từ nhận thức rằng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống “KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT”, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đi một bước cách mạng đột phá, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp cận dần sự thật để dám từ bỏ cái chủ nghĩa dối trá là chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi xin chép lại lời của đại văn hào Pháp V. Hugo để tặng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, những người đã dám dũng cảm cứu nguy dân tộc bằng cách chôn chủ nghĩa xã hội từ năm 1976 (chủ nghĩa Marx thực chất là một chủ thuyết về kinh tế) để xây dựng kinh tế thị trường- kinh tế tư bản : “CÁCH MẠNG LÀ CUỘC TRỞ VỀ TỪ CÁI GIẢ ĐẾN CÁI THẬT”. Sài Gòn 15-02-2013 Trần Mạnh Hảo http://quechoa.vn/2013/02/15/chu-tich-truong-tan-sang-khang-dinh-he-thon...
......

Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979

Những hành vi bị nhiều người cho là hung hãn của Trung Quốc trong vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông có thể dẫn tới chiến tranh. Đó là nhận định của một số các nhà quan sát khi họ nhìn lại cuộc chiến tranh cách nay hơn 30 năm giữa hai lân bang theo chủ nghĩa Cộng Sản có mối quan hệ khắng khít, thường được mô tả là “môi hở răng lạnh”. Những đòi hỏi chủ quyền chồng chéo nhau ở Biển Đông có nhiều tài nguyên thiên nhiên tiếp tục gây căng thẳng cho các mối quan hệ giữa Trung Quốc và một số các nước láng giềng của họ ở Á châu, trong đó có Việt Nam. Những vụ tranh chấp như vậy giữa Trung Quốc và Việt Nam đã diễn ra trong nhiều thế kỷ. Nhưng đến cuối thập niên 1970, sự hiềm khích giữa đôi bên đã bùng lên thành một cuộc xung đột vũ trang có nhiều chết chóc, với cuộc chiến tranh thường được gọi là cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979. Trung Quốc đã dùng yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa làm một trong các lý do để xâm lăng Việt Nam, tuy cuộc chiến tranh đó diễn ra sau một loạt những vụ đụng độ ở biên giới hai nước và những hành động quyết liệt của Việt Nam ở Campuchia. Tại Campuchia lúc đó, chế độ Khmer Đỏ tàn bạo đã phát động một chiến dịch khủng bố trên cả nước. Chiến dịch diệt chủng này rốt cuộc đã gây tử vong cho hơn 2 triệu người. Khmer Đỏ có được sự hậu thuẫn của Trung Quốc nhưng bị Liên Sô phản đối. Việt Nam có được sự hỗ trợ của cả Trung Quốc lẫn Liên Sô trong cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ, nhưng dần dần tránh xa Trung Quốc trong những năm giữa thập niên 1970 và nghiêng hẳn về phía Liên Sô. Việt Nam tiến quân sang Campuchia cuối năm 1978 và nhanh chóng lật đổ chế độ Khmer Đỏ. Ông Lý Tiểu Binh, Khoa trưởng Phân khoa Sử Địa của Đại học miền Trung Oaklahoma, cho biết lãnh tụ Trung Quốc lúc đó là ông Đặng Tiểu Bình đã tức giận trước hành động của Hà Nội và quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học”. Giáo sư Lý: "Vì ảnh hưởng ngày càng tăng của Việt Nam trong khu vực, cộng với việc xâm lăng Campuchia và sự hợp tác với Liên Sô, nên ông Đặng Tiểu Bình và Trung Quốc e rằng Việt Nam có thể bành trướng thế lực của mình tới những khu vực khác, kể cả Biển Nam Trung Hoa." Trung Quốc cũng tố cáo Việt Nam bách hại Hoa Kiều và lên tiếng chống đối việc Việt Nam chiếm đóng những hòn đảo của quần đảo Trường Sa. Đầu năm 1979, ông Đặng Tiểu Bình đi thăm Hoa Kỳ và bày tỏ sự bất mãn đối với Việt Nam. Ông nói với các giới chức ở Washington rằng “những đưa trẻ không nghe lời cần phải đánh đòn.” Lính Trung Quốc bắt đầu tràn qua biên giới Việt Nam hồi tháng hai năm 1979. Phía Việt Nam gọi đây là cuộc chiến “chống bá quyền Trung Quốc” trong lúc Bắc Kinh gọi cuộc xung đột vũ trang này là “Cuộc phản kích tự vệ chống lại Việt Nam.” Giáo sư Lý Tiểu Binh nói rằng Trung Quốc muốn mô tả cuộc chiến này là một cuộc chiến tự vệ. Giáo sư Lý: "Trung Quốc muốn biện minh cho hành động của mình. Họ muốn mọi người tin rằng cuộc chiến tranh này có tính chất phản ứng tự vệ để đáp lại chính sách hung hãn của Việt Nam." Tiến sĩ Lý Tiểu Binh cho biết ông Đặng Tiểu Bình muốn dùng cuộc chiến tranh với Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của quân đội Trung Quốc. Giáo sư Lý: "Có vấn đề giữa hàng ngũ lãnh đạo mới của ông Đặng Tiểu Bình và quân đội. Quân đội than phiền là họ không được lợi lộc gì trong các nỗ lực cải cách. Họ nói rằng trong lúc tiến hành cải cách họ đã không nhận được các nguồn lực để phát triển. Thậm chí họ còn cho rằng họ là nạn nhân của phong trào cải cách." Ông Lý Tiểu Binh nói rằng ông Đặng Tiểu Bình đã để cho quân đội có được một cơ hội để chứng tỏ khả năng và cho phép họ tự soạn thảo kế hoạch xâm lăng Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc xâm lăng đó lại nêu bật sự yếu kém của quân đội Trung Quốc. Họ chỉ tiến được vào lãnh thổ Việt Nam khoảng 8 kilo mét, tuy đã gây thiệt hại nặng cho một số thành phố ở biên giới. Đà tiến của những toán quân Trung Quốc đã bị khựng lại khi gặp phải sự kháng cự kịch liệt của phía Việt Nam, những người đã tận dụng được các kỹ năng đánh du kích mà họ đã trui luyện trong cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ. Trung Quốc đã gánh chịu tổn thất nhân mạng rất lớn và phải rút về nước sau 29 ngày. Giáo sư Lý: "Đó là một thảm họa nhục nhã đối với quân đội. Thương vong ở mức cao, không theo đúng kế hoạch, thông tin liên lạc tồi tệ, tính toán sai lầm, vân vân …" Về mặt công khai, cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng. Nhưng phía Trung Quốc biết rõ là quân đội của họ có nhiều khiếm khuyết. Không lâu sau đó, Bắc Kinh đã thực hiện một chương trình để hiện đại hóa quân đội của mình. Giáo sư Lý: "Quân đội nhận ra rằng họ đã bị lỗi thời. Tinh thần chiến đấu binh sĩ rất thấp. Các hệ thống của Liên Sô không hoạt động có hiệu quả. Khi đó họ còn dùng các loại khí tài của Liên Sô. Vì vậy cho nên họ đã sẵn sàng chấp nhận đề nghị cải cách quân đội. Giáo sư Lý Tiểu Binh cho rằng qua cuộc chiến năm 1979 Trung Quốc lại một lần nữa chứng tỏ với các nước láng giềng là họ sẵn sàng sử dụng vũ lực để giải quyết những vụ tranh chấp lãnh thổ. Nhiều năm sau khi chiến tranh chấm dứt, những vụ đụng độ ở biên giới Việt-Trung vẫn tiếp diễn và quan hệ song phương tiếp tục bị căng thẳng. Mãi cho đến năm 1986, với bối cảnh của sự thay đổi hàng ngũ lãnh đạo ở Bắc Kinh và Hà Nội và các phong trào cải cách ở Nga, Trung Quốc và Việt Nam đã đồng ý gác qua một bên những vụ tranh chấp để tập trung nỗ lực vào công cuộc phát triển hòa bình. Công cuộc phát triển đó giờ đây đã bị đe dọa bởi những hành động có tính chất kịch liệt của Trung Quốc để chống lại điều mà họ cho là những mối đe dọa đối với lãnh thổ của họ ở Biển Đông. Các nhà quan sát cho rằng những hành vi gây nhiều sóng gió có thể làm cho Trung Quốc rơi vào một cuộc xung đột với các nước láng giềng cũng có yêu sách chủ quyền ở vùng biển rất quan trọng cho hoạt động thương mại của cả thế giới này.   http://www.voatiengviet.com/content/nhin-lai-cuoc-chien-viet-trung-nam-1979/1521720.html  
......

Nhìn lại chiến tranh biên giới 1979

Đúng vào ngày này 34 năm trước (17.2.1979), Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề. Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết. Kể từ sau khi VN và TQ bình thường hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lãng quên như vậy? Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này?  Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện. Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN. Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là  không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua. Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ? Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới. Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2.1979 - Ảnh: Tư liệuTù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể  lờ đi vấn đề lịch sử này được. Tôi đã nhiều lần trao đổi với các học giả nước ngoài và họ đã thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các giáo trình lịch sử của VN. Tôi đã phải chống chế với lý do rằng người VN muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc, Nhật Bản đã phản bác tôi vì “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ. Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân hậu, muốn hòa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”. Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước. Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm. Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh. Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ? Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định, giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân. Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia. http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130217/nhin-lai-chien-tranh-bien-gioi-1979.aspx  
......

Bắc Kinh: Đường rút an toàn của CSVN?

Từ hai năm qua, đặc biệt là từ sau Hội nghị 6 của Trung ương đảng CSVN vào tháng 10 năm 2012, lãnh đạo CSVN ở vào hai thế khó xử: Thứ nhất là không dám đưa ra bất cứ biện pháp kỷ luật nào đối với những cán bộ lãnh đạo bị đánh giá là “suy thoái đạo đức” sau khi có kết quả ‘phê và tự phê’ để ngăn chận tình trạng tham ô nhũng lạm. Đặc biệt là Bộ chính trị đã không kỷ luật được ông Nguyễn Tấn Dũng (mà còn che giấu gọi là đồng chí x) vì sợ tạo ra những cuộc “đấu đá” ngầm giữa phe ông Dũng với phe kình chống. Điều này đã được ông Nguyễn Phú Trọng nói xa gần trong cuộc tiếp xúc với cử tri ở Hà Nội hôm mồng 1 tháng 12, 2012 rằng: “kỷ luật mà không tính kỹ thì lại rối, mai kia là ân oán, thù oán, đối phó, thành phe phái, rối nội bộ….” Thứ hai là không dám thỏa mãn những đòi hỏi tôn trọng nhân quyền của Hoa Kỳ để đổi lấy việc mua vũ khí chiến lược hầu tăng cường phòng thủ trước sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, vì vẫn mang nặng tư duy của thời Chiến Tranh Lạnh: coi Hoa Kỳ là thù địch và sợ Hoa Kỳ thúc đẩy diễn biến hòa bình làm sụp đổ đảng từ bên trong. Điều này đã được ông Phùng Quang Thanh viết trong Tạp chí quốc phòng số tháng 12/2012 rằng: “thế lực thù địch (ám chỉ Hoa Kỳ) tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá bằng chiến lược ‘Diễn biến hòa bình’ sử dụng các chiêu bài ‘dân chủ’, ‘nhân quyền’, ‘dân tộc’, ‘tôn giáo’, thúc đẩy ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta; khi có cơ hội, chúng sẵn sàng phát động chiến tranh xâm lược.” Nỗi ám ảnh “diễn biến hòa bình” bỗng chốc trở nên nguy kịch hơn khi hiện tượng “tự diễn biến” xuất hiện ngày một nhiều với hàng loạt những phê phán, chỉ trích đảng nặng nề, thẳng thừng ngay từ những đảng viên kỳ cựu. Nhất là hiện tượng kêu gọi đảng “lột xác”, chấp nhận đa nguyên, đa đảng xảy ra dồn dập... khi đảng cho mở “hộp giun” hiến pháp. Mọi kế sách của CSVN, do đó, đã không nhằm giải quyết các vấn nạn trầm trọng của đất nước như kinh tế suy thoái, xã hội bất ổn, dân tình ta thán, nguy cơ xâm lược của phương Bắc, mà ưu tiên bảo vệ chế độ và chống “diễn biến hòa bình”. Ông Phùng Quang Thanh đã khẳng định rằng: Nhiệm vụ hàng đầu của CSVN trong thời gian tới là “chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược ‘diễn biến hòa bình’ của các thế lực thù địch”, rồi sau đó mới là “các hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc.” Quan điểm nói trên của ông Phùng Quang Thanh đã phản ảnh rất rõ những suy nghĩ của 14 ủy viên Bộ chính trị đảng CSVN trong tình hình hiện nay: để giữ chặt quyền lực độc tôn, CSVN không thể tách rời khỏi mối liên hệ với Bắc Kinh. Quan điểm này đã giải thích lý do vì sao CSVN đã để cho một số cán bộ cao cấp như ông Nguyễn Thế Kỷ (Phó trưởng ban tuyên giáo), Đại tá Trần Đăng Thanh (Viện nghiên cứu chiến lược Bộ quốc phòng), Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh (Thứ trưởng Bộ quốc phòng) công khai đề cập về “công ơn” và “đối xử hòa bình” với nước láng giềng Trung Quốc. Vừa qua, Thủ tướng Abe của Nhật Bản đã chọn Việt Nam là quốc gia đầu tiên ghé thăm trong chuyến công du ba nước Thái Lan, Nam Dương và Việt Nam sau khi được tái tín nhiệm chức Thủ tướng vào cuối năm 2012. Ông Abe chọn đến Việt Nam vào lúc này không gì khác hơn là muốn vận động Hà Nội “liên minh” với Nhật Bản và Phi Luật Tân để chống lại các hiểm họa bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông, đe dọa đường vận chuyển dầu thô và hàng hóa của Nhật Bản. Cộng sản Việt Nam đón tiếp ông Abe như một nghĩa cử “cảm ơn” về khoản viện trợ ODA dồi dào mà chính quyền đảng Tự Do Dân Chủ của ông Abe đã bỏ ra cho CSVN trong 20 năm vừa qua, hơn là đáp ứng các yêu cầu chống Trung Quốc của Nhật. Dù mang ơn giúp đỡ của Nhật Bản nhưng CSVN khó có thể quay lưng với Trung Quốc vào lúc này. CSVN không dám chống lại Trung Quốc không chỉ vì hai đảng và hai nước cùng nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa hay vì đang phải dựa vào đầu tư và tiền vay mượn từ Trung Quốc để cứu nguy nền kinh tế, mà còn một nguyên nhân quan trọng khác, phát sinh từ khoảng một năm nay, khi dấu hiệu “tự sụp đổ trong nội bộ” đang trở thành mối đe dọa nguy hiểm. Hàng loạt những thất bại về kế hoạch xây dựng các tập đoàn kinh tế để phát triển thành quốc gia công nghiệp hiện đại vào năm 2020 và những bất ổn xảy ra liên tục ở các huyện nông thôn về chính sách đất đai, đã khiến cho lãnh đạo CSVN thấy rõ là niềm tin của đảng viên vào họ không còn nữa. Ông Hữu Thọ từng là cựu Tổng biên tập báo Nhân Dân đã nói lên thực trạng này bằng nỗi ưu tư đầu năm 2013 rằng: “quan hệ giữa người Đảng viên bình thường và người lãnh đạo đang có xu hướng gia tăng khoảng cách, không còn được như thời chúng ta là những người đồng chí với nhau chung một chiến hào.” Trong bối cảnh đó, nội bộ đảng CSVN hiện chia làm hai xu hướng: Xu hướng thứ nhất là thành phần cán bộ giàu có tìm cách đưa con cái và gia đình đi ra nước ngoài dưới dạng du học hay làm ăn để qua đó tẩu tán tài sản nếu một mai ‘diễn biến hòa bình’ thật sự xảy ra. Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước CSVN cho biết là hàng năm hiện có khoảng hơn 2 tỷ Mỹ Kim chuyển ra nước ngoài dưới dạng chuyển ngân tiền học, chưa kể hàng tỷ Mỹ Kim khác chuyển dưới dạng không chính thức. Xu hướng thứ hai là thành phần cán bộ đảng viên còn chút ràng buộc về lý tưởng cộng sản tìm cách vận động thành phần lãnh đạo chấp nhận một số thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội mà cụ thể là giảm bớt sự độc quyền của đảng, chấp nhận một hình thái đa nguyên về chính trị hầu tránh cho đảng không bị tan rã toàn diện trong bối cảnh xảy ra ‘diễn biến hòa bình’. Cả hai xu hướng nói trên đều đẩy lãnh đạo CSVN - đặc biệt là 200 ủy viên Trung ương đảng khóa VII hiện nay – rơi vào tình thế rất khó xử. Họ khó có thể lùi bước chấp nhận đa đảng vì đó là con đường dẫn đến tự sát như ông Nguyễn Minh Triết đã từng nói. Họ cũng không thể đưa con cháu và chuyển tài sản sang các nước Âu Mỹ như những cán bộ bình thường vì có ngày sẽ bị các nước này phong tỏa trắng tay như đã từng làm đối với thành phần quân phiệt Miến. Lãnh đạo CSVN chỉ còn phương cách duy nhất là tung ra những biện pháp thay đổi vá víu như hô hào góp ý cải sửa hiến pháp 1992 hay thổi phồng việc đưa Nguyễn Bá Thanh ra nắm ban nội chính trung ương chống tham nhũng…. để câu giờ. Trong khi đó họ cố chịu nhục, cúi đầu phục vụ các đòi hỏi của Bắc Kinh để khi đảng bị thoái trào thì dẫn vợ con và gia đình vượt biên giới sang tỵ nạn Trung Quốc. Con đường Bắc Kinh là giải pháp tự cứu của lãnh đạo CSVN khi có biến động. Điều đáng tiếc cho lãnh đạo CSVN là đã mù quáng không nhìn ra những thay đổi tất yếu của lịch sử nhân loại và tiếp tục nhắm mắt tin vào đàn anh Trung Quốc. Xã hội Trung Quốc hiện cũng có rất nhiều mầm mống mâu thuẫn chực chờ bùng nổ không thua gì ở Việt Nam từ kinh tế, xã hội, giáo dục, môi trường… Chính Trung Quốc đang phải trực diện với những đột biến chính trị có thể xảy ra bất cứ lúc nào, do đó không phải là nơi “an toàn” để dung thân cho thành phần đã và đang lãnh đạo đảng CSVN.
......

Cuộc Chiến Trong Yên Lặng

Trái với bề nổi có vẻ ổn định của thể chế chính trị và một sự "cân bằng lập lờ" của nền kinh tế trong giai đoạn hiện tại, Việt Nam vẫn chất chứa những kho thuốc nổ đang được lên giây, định giờ, chờ nổ. -Những cuộc đấu tranh công khai của các nhân sỹ, trí thức, kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992. -Những cuộc bút chiến "tóe tâm huyết" của các Blogger, những nhân sỹ trí thức mà trong số đó, không hiếm những "hậu duệ, tự chối bỏ nguồn gốc đỏ" của mình, không quản an nguy, cho bản thân cũng như gia đình, để đòi hỏi những "thuộc quyền được mặc định" bởi tạo hóa, cho cả tiền đồ Dân Tộc. Những cuộc đấu tranh "sống mái" của những nông dân vấn vành tang trắng trên đầu để đòi hỏi sự công bằng, minh bạch trong vấn đề sở hữu đất đai trên những cánh đồng Dương Nội, Văn Giang, Vụ Bản mù mịt khói lửa và cả tiếng súng hoa cải Tiên Lãng của gia đình họ Đoàn   Những cuộc "trải chiếu, trải lều", "trải nổi thống khổ" trong các vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Lý Tự Trọng, trước Văn phòng Quốc Hội phố Ngô Thì Nhậm, Trụ sở Mặt trận Tổ Quốc phổ Tràng Thi, của Dân oan mất đất. Sát cánh với những cuộc đấu tranh trên, một cuộc chiến không tuyên bố, tuy âm thầm lặng lẽ nhưng không kém phần khốc liệt, trí tuệ  giữa những suối nguồn nhỏ nhoi cho đến dòng sông cuộn sóng của lòng dân với con thuyền ngạo mạn của "lớp người cộng sản" đi ngược con sóng tất yếu của dòng chẩy lịch sử Dân tộc đổ về biển lớn của tiến trình tiến hóa nhân loại. Đó là cuộc chiến đã được quy ước từ thưở hái lượm, theo thuyết tiến hóa Darwin, cuộc chiến để bảo vệ thành quả lao động của "chân và tay", của thiên nhiên và con người, của "máu và nước mắt", của "bạo lực cường quyền" và sự "thông thái dân gian".  Đó chính là cuộc chiến làm đau đầu những nhà "Max, ít - Lênin, ít -  Mao, tí -  Đặng, nhiều", trong nền"Kinh tế thị trường định hướng XHCN" hiện nay. Một bài toán phương trình "ý đảng, lòng dân" ẩn số "X", không có nghiệm cho sự tồn vong của kinh tế thị trường nửa mùa. Đó chính là tình trạng dân Việt Nam hiện tại coi trọng những thứ như: 1-Vàng, một thứ vô tổ quốc. 2-USD, quốc tịch Mỹ, 3-Tiền mặt VNĐ. Trong một nền kinh tế mà chỉ số tín nhiệm của người dân đối với các chính sách vĩ mô của nhà nước, đi ngược với chỉ số "lạc quan nhăn nhở" của Việt Nam, về dưới không, mà trong hai năm gần đây, tỷ giá song phương giữa USD và VNĐ hầu như không thay đổi. Mặc dù trong tương quan giá trị song phương giữa USD/VND, hiện đồng nội tệ đã bị đánh giá cao vượt so với thức tế 24%. Thế nhưng tỷ giá song phương này, vẫn xoay quanh trục 1USD/ 20.820-20828 VNĐ, nếu tính từ đợt điều chỉnh cuối cùng của NHNN 24/12/2012, vẫn nằm trong biên độ cho phép của NHNN 20.825-21036Đ/USD, là một điều quái dị?, mặc cho những"tư vấn phá giá VNĐ một cách giảm sốc 4%/năm" của các chuyên gia kinh tế - tiền tệ. Trong bối cảnh hiện tại, khi mà: -Những mục tiêu ngắn hạn vô vọng như trong lãnh vực chứng khoán vì thị trường cũng như thanh khoản lao dốc, đầu tư vào vàng bị NHNN ngăn cấm. -Những mục tiêu dài, hạn tuyệt vọng như Địa ốc vì đã bị đóng băng. -Chỉ một số ít ỏi, không quá 75.000 tỷ VNĐ vốn huy động được đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. -Trong cơ cấu vốn huy động, tiền gửi bằng ngoại tệ giảm hơn 13%, trong khi đó tiền gửi bằng VNĐ tăng 36% -Tăng trưởng tín dụng có mức tăng trưởng tấp kỷ lục 7%/ năm. -Mặc dù đã có quy định của NHNN, kéo lãi xuất huy động với thời hạn 1 - dưới 12 tháng, không được vượt 8%/năm. Thế nhưng có những lúc những nơi các Ngân hàng vẫn công khai trương bảng 11,2%/năm, chưa kể "lãi xuất thập thò" lên tới 13, 14%/năm, nhưng NHNN lại có một động thái "ngó lơ", trái ngược so với thời gian không lâu trước đó. -Tổng lượng tiền huy động trong toàn hệ thống Ngân hàng ước đạt 2.900.000 tỷ đồng (lấy tròn). Tổng lượng tiền mà các Ngân Hàng huy động, vượt hơn 10 lần tăng trưởng tín dụng (3). Nếu quy đổi ra USD thì trong tổng số vốn huy động gần 145 tỷ USD, toàn hệ thống Ngân Hàng chỉ cho vay và đầu tư vào trái phiếu chính phủ chưa tới 10 tỷ USD. Dễ dàng nhận ra rằng, tất cả vốn huy động chỉ dành cho mục tiêu cứu thanh khoản của toàn hệ thống. Đối chiếu với lời xác nhận đầy "lạc quan" của Phó Thống Đốc Ngân Hàng Lê Minh Hưng trong buổi họp mặt tổng kết cuối năm 2012 với các tổ chức tín dụng trong, ngoài nước, con số được cho là sát thực tế 10 tỷ USD của cán cân vãng lai thặng dư tổng thể. Có thể nhận ra rằng, hệ thống Ngân Hàng Việt Nam đang phạm một sai lầm chết người, đe dọa đến tính ổn định của toàn hệ thống về thanh khoản do sai lầm kép ở cơ cấu thời hạn và cơ cấu đồng tiền. Hầu hết các vốn huy động được của hệ thống Ngân Hàng đều ở mức ngắn - trung hạn, không quá 12 tháng. Hiện tại trong năm 2012 toàn hệ thống đã phải chi trả lợi tức cho số tiền huy động được trừ lùi gối đầu theo kỳ hạn tín dụng, một con số không nhỏ, gần gấp đôi số thâm hụt cán cân thương mại 2010 giữa VN - TQ, gần 25 tỷ USD (lấy tròn) (5). 10 tỷ USD chỉ như muối bỏ bể. Những lời bao biên như: lo sợ cán cân trong quan hệ USD/VND của nợ công, sợ nhập khẩu lạm phát mà không dám phá giá VNĐ của NHNN, chẳng qua chỉ là che dấu sự lo ngại một cuộc khủng hoảng thanh khoản tái phát do người gửi sẽ ồ ạt rút tiền để chuyển hóa thành USD, vàng, nếu NHNN VN chỉ cần phá giá VND trong biên độ 0,5 - 1%. Vì những người có tiền, hiện nay chẳng ai dại gì chỉ nắm giữ VNĐ. Công thức để bảo toàn đồng vốn phổ biến hiện tại: 1/2 vàng - 1/2 VND hoặc 1/3 vàng (hoặc thứ tương đương như kim cương) - 1/3 USD - 1/3 VND. Số lợi tức thu được từ VND gửi trong các tổ chức tín dụng sẽ được chuyển hóa lại thành vàng, USD. Lãi xuất và biến động tỷ giá, dĩ nhiên sẽ được người gửi tiền theo dõi, tính toán sát sao một cách "thông minh dân gian". Trong giai đoạn này, các Ngân Hàng để tự cứu tính thanh khoản của mình, chỉ còn nước chạy đua tăng lãi xuất. Hiện nay các Ngân hàng liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài hầu như chỉ huy động được USD mặc dù lãi xuất cực thấp. Ngược lại hầu hết 35 Ngân hàng thương mại ngoài nhà nước cũng như 5 Ngân hàng nhà nước hầu như chỉ huy động được VNĐ. Trong cuộc chiến tiền tệ này, người dân là người "gửi tiền thông minh". Hệ thống Ngân Hàng VN, phải ngậm đắng nuốt cay, mỗi tháng phải chi ra không dưới 1,8 tỷ USD, cho người gửi tiền. Không có cách nào khác, nếu như NHNN, không muốn sụp đổ cả hệ thống. Hiện tại, NHNN VN đang lâm vào thế bị động, nếu không muốn nói đang lâm vào thế bí, trong cuộc chiến tiền tệ với người dân. Với lượng tiền huy động vượt quá mười lần tăng trưởng tín dụng để cứu thanh khoản và với lãi xuất phải trả cho người gửi đến mức không chịu đựng được, hệ thống Ngân Hàng VN nói riêng và nền Kinh tế VN, sự tồn vong của Đảng CS VN nói chung, đang trên miệng vực sâu. Đây chính là cuộc chiến giữa Bạo lực cách mạng và sự thông thái dân gian, giữa sự "giảo hoạt có tính toán" và "sự chịu đựng kiềm chế, ngắn hạn trong hiện tại và sự bất tín nhiệm vô hạn, trong tương lai". Một thể chế Chính trị không được sự ủy nhiệm đồng thuận của dân chúng sẽ chi phối nền Kinh tế của quốc gia đó ở một mức độ giới hạn, trong một giai đoạn ngắn hạn. Một hình thái kinh tế tương hợp với ý nguyện của Đất nước sẽ quyết định thể chế Chính trị tương thích, trong tương lai dài hạn. Với những kinh nghiệm đau xót trong quá khứ qua những chiến dịch "Đánh Tư sản mại bản", "Cải tạo Công thương nghiệp" X1, X2, X3, X4, X5...Người dân Việt Nam hiện nay quá đủ kinh nghiệm để bảo vệ tài sản của mình một cách thông minh nhất.+ Thử nghĩ xem. Đà Lạt 12/02/2012 (Mùng 2 Tết Đinh Tỵ) Oanh Yến Thị Phạm
......

Quân Đội, Những Người Lính Của Nhân Dân Các Anh Còn Ngủ Đến Bao Giờ ?

Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.  Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy.  Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.  Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . . Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?  Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.  Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”. Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha. Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”. Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam , nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam , khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.  Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.  Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.  Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay: “Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . .”  Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.  Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”? Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.  Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợhãi. Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.  Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó. Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây. Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.  Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu. Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.  Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng? Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”? Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở. Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!” Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng? Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng? Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước. Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.  1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.  2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt. Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình. Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.  Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họ là những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.  Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”. Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh. Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà“  DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ. Tại sao lại là hổ và dê? Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn. Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽ thấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó. Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên? Bauxite ư? Trò lừa đảo! Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam , tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thế giới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?  Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều. Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.  Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ” Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà.Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, trụy lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.  Bác chúng em Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”. Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản. Nhưng ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.  Tôi chứng minh:Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.  Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn! Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân. Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân. Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó? Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉ đã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và “Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.  Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết. Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?  Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ? Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.  Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.  Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân. Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.  Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ. Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.  Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .  Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.  Dân Việt : Ai là dân Việt? Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia? Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều? Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.  Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được. Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.Đó là một nhận định sáng suốt. Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam . Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.  Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ 21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.  Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định? Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam , phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương? Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán? Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời. Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.  Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam . Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “ Nam tiến”! Nam tiến, nam tiến và nam tiến! Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.  Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta. Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu? Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.  Để giữ được non sông, để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, một chính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.   Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.  Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình. Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉ luỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi. Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc. Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của An Dương Vương. Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng lên cùng với họ. Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ? Dương Thu Hương http://son-trung.blogspot.de/2013/02/duong-thu-huong-quan-oi-ngu-guc.html
......

Trí thức không thể quẩn quanh trong tháp ngà khoa học

Đáng buồn “trí thức trùm chăn” có vẻ nhiều lên, hoặc không thì cũng là “số đông im lặng”, thụ động. Nguyên nhân có cả ở tư cách “kẻ sĩ” của trí thức ngày nay yếu ớt và cả ở một xã hội dễ trùm chăn ru ngủ trí thức. Tạo Hóa cho con người ta không ai giống ai, khác nhau cả về hình dáng, tâm tính, suy nghĩ. Do vậy, trước mỗi sự kiện, hiện tượng, vấn đề có những cách nhìn nhận khác nhau, có những ý kiến khác nhau là chuyện thường, có thể nói đó là một bản tính tự nhiên. Tự nhiên mà giống nhau cả thì còn gì là tự nhiên. Và khi con người hợp thành xã hội thì lại lẽ tự nhiên là không có một vấn đề xã hội nào được đồng thuận tuyệt đối, được đồng thuận ngay từ đầu, mà luôn phải chịu sự tranh luận, xem xét, xoay ngang đảo ngược, tóm lại là phải chịu sự “phản biện” của mọi thành phần xã hội. Trí thức là thành phần xã hội có tri thức và hiểu biết, có năng lực nhận thức và xét đoán khoa học, có tính cách độc lập và tư cách phát ngôn. Hai chữ “phản biện” dùng cho trí thức là đúng lắm. Phản biện đây là theo tinh thần hoài nghi khoa học trước mọi vấn đề, là chỉ tin khi đã được thuyết phục bằng lý tính, là tranh luận bàn bạc trong không khí tự do dân chủ thực sự để cùng nhau tìm ra sự thật và chân lý. Phản biện là bác bỏ để chấp nhận, không phải là “nói ngược” cho sướng miệng, cho hả tức giận, càng không phải là để tạo cớ nổi tiếng. Phản biện đúng là một vai trò quan trọng, không thể thiếu của trí thức, cả trong lĩnh vực chuyên môn và cả trong các vấn đề xã hội. Tên gọi “trí thức trùm chăn” không phải bây giờ mới có. Nó là để chỉ một bộ phận trí thức quay lưng lại thực tại xã hội, nhắm mắt bịt tai trước những vấn đề bức xúc, cấp thiết của nhân quần, chỉ quẩn quanh trong tháp ngà khoa học, cho rằng mình chỉ cần làm tốt công việc chuyên môn là đủ, không cần dính dáng gì đến chính trị, thời sự. Loại trí thức này thường bộc lộ vào những thời điểm lịch sử có nhiều biến động lớn, trong các phong trào cách mạng xã hội sôi động, khi cần tiếng nói và hành động của tầng lớp trí thức như những phần tử tinh hoa của xã hội thúc đẩy sự vận động của đời sống theo hướng tích cực. Nhưng ngay cả vào những thời điểm quyết liệt, khủng hoảng nhất, bộ phận “trí thức trùm chăn” vẫn không phải là tiêu biểu, vẫn có nhiều trí thức dám dấn thân và xả thân cho đất nước. Thành công của cách mạng và kháng chiến ở nước ta hơn nửa thế kỷ qua là có phần đóng góp quan trọng của các trí thức dấn thân đó. Đáng buồn hiện nay “trí thức trùm chăn” như có vẻ nhiều lên, hoặc không thì cũng là “số đông im lặng”, thụ động. Nguyên nhân có cả ở tư cách “kẻ sĩ” của trí thức ngày nay yếu ớt và cả ở một xã hội dễ trùm chăn ru ngủ trí thức. Sự xuất hiện của hai từ “phản biện” không chỉ trong lời lẽ thông thường mà cả trong các văn kiện chính trị cho thấy giới trí thức, ở những đại diện dũng cảm của mình, đã không cam chịu đánh mất vai trò như đã nói trên của mình. Họ lên tiếng tại nhiều diễn đàn công khai và chính thức, họ viết các kiến nghị, các tâm thư, các yêu cầu gửi các cấp chính quyền, họ viết báo viết mạng bày tỏ ý kiến chính kiến của mình, tất cả đều căn cứ vào một điều hiến định là “tự do tư tưởng, tự do ngôn luận”. Xã hội đã quen dần và chính quyền đã chịu dần sự phản biện của trí thức. Tuy nhiên, để nói tới một phong trào phản biện sôi nổi, nghiêm túc, có người nói và người nghe, có phản và có biện, nói thẳng và nói thật, tiếp thu và trao đổi, bình đẳng và khách quan, thì quả thực những người trí thức dũng cảm vẫn đang là đơn độc. Trí thức thụ vốn tự bản chất không hèn, nhưng có một cái sợ khiến họ phải hèn, hoặc tự làm hèn. Kể ra trí thức bị hèn vì sợ thì không còn là trí thức đúng nghĩa nữa. Nhưng vậy thì đội ngũ trí thức bao năm qua xây dựng mà không đúng nghĩa là trí thức thì lỗi do đâu? Câu hỏi này tôi nghĩ cần phải được phản biện mạnh mẽ. Dịp này cả nước đang thảo luận góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, một điều tôi muốn đề xuất là: những gì đã được hiến định (như quyền biểu tình, quyền lập hội, quyền tự do tư tưởng, ngôn luận) thì phải nhanh chóng cụ thể hóa thành luật để nhà nước và nhân dân thi hành, và không ai được có quyền vi hiến. Khi đó tôi tin phản biện xã hội của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là của giới trí thức, sẽ là một công cụ đắc lực phát triển xã hội.
......

Nguy cơ Trung Quốc

Lời người dịch: Nền kinh tế Vìệt Nam cũng như hệ thống tài chánh ngân hàng Việt Nam hiện nay là một „copy“ mang nhiều khiếm khuyết của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Trung quốc. Nhân đọc được bài viết có giá trị về sự rủi ro của hệ thống ngân hàng Trung quốc đăng trên trang nhất của nhật báo dành cho giới doanh nhân và kinh tế của Đức “Handelsblatt“ ngày 31.01.2013 tôi xin được dịch ra tiếng Việt để mọi người cùng tham khảo. Nguyễn Hội ***************************** Trung Quốc lừa cả thế giới: trong lĩnh vực nợ nần nhà nước là biểu tượng sáng chói. Tuy nhiên rủi ro bạc tỷ trong lĩnh vực ngân hàng dùng chi phí cho các dự án danh tiếng và chi phí cho các chương trình kích thích kinh tế. Bong bóng tín dụng rất nguy hiểm đã được hình thành (tại Trung quốc).   Niềm tự hào mới nhất của Trung Quốc là tuyến đường sắt cao tốc 2 300 km với xe lửa màu trắng thon gọn nối liền Quảng Châu và Bắc Kinh, trung tâm kinh tế phía Bắc và phía Nam của quốc gia. Tốc độ tối đa là 300 km mỗi giờ.   Dự án chỉ có một lỗi là không bao giờ có lợi nhuận.   Cho tới nay công ty đường sắt Trung Quốc đã mượn nợ của ngân hàng tổng cộng là 280 tỷ euro để chi phí cho dự án này cũng như cho các dự án khác. Ngân hàng chủ nợ có „thấy lại“ được số tiền cho vay nêu trên hay không là điều còn cao hơn là nghi ngờ.   Bong bóng nợ đã hình thành tại Trung Quốc, bong bóng này cũng như tất cả mọi thứ khác hiện diện trên Nước Cộng hòa Nhân dân là rất vĩ đại. Nhà nước luôn luôn chi phí hàng tỷ USD vào các dự án danh tiếng mới, chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay nợ ngân hàng ngắn hạn. Họ muốn phát triển bằng mọi giá – cho dù nợ ngập đầu.   Ở phương Tây, các ngân hàng phải bảo đảm rủi ro tín dụng mà họ cho vay bằng vốn của chính ngân hàng và tiền vốn bảo đảm này mỗi ngày mỗi tăng (bởi qui định của pháp luật) và các khoản nợ xấu phải được xử lý bằng cách đưa vào các ngân hàng xấu (bad debt bank), trong khi đó các ngân hàng Trung Quốc được thổi phồng to một cách không kiểm soát được. „Hàng chục nghìn quan chức cấp thấp của chính phủ và các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đã mượn nợ mà không cần phải kiểm tra, giám sát“, nhà kinh tế Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cho biết. Chính thức là nhà nước không thiếu nợ cao. Tuy nhiên tất cả các rủi ro được dồn vào bảng cân đối của các ngân hàng (bank balance sheet). Vì vậy, ngân hàng (tại Trung Quóc) là lĩnh vực nguy hiểm nhất cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Họ phải phục vụ một nền kinh tế lớn nhất trên thế giới sau Hoa kỳ, nhưng đồng thời cũng là nơi nhận chỉ thị của chính quyền xã hội chủ nghĩa trung ương. Các khoản cho vay mà không có bất kỳ một kiểm soát từ bên ngoài. Theo các chuyên gia, trên thực tế Trung quốc chỉ có đủ khả năng tăng trưởng từ 5% đến 6% mà thôi, nhưng họ đặt mục tiêu cho năm nay là hơn tám phần trăm. Cơn nghiện tín dụng đã phóng đại thực tế ở Trung Quốc.   Vòng luẩn quẩn của việc giảm tăng trưởng và gia tăng nợ nần có vẻ đe dọa nặng nề hơn là Trung Quốc có nhiều ngân hàng lớn nhất thế giới. Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc (Industrial & Commercial Bank of China), với mức vốn tổng cộng gần 186 tỷ euro là ngân hàng có giá trị nhất thế giới. Ngân hàng thúc đẩy tăng trưởng gần như là độc quyền, tài trợ từ các ngân hàng khác cho tới nay không đáng kể.   Cơn đói tín dụng lên cao đến độ mà các doanh nghiệp (Trung quốc) phải kiếm ngày càng nhiều nguồn vốn từ các ngân hàng không chính thức. Tháng mười năm ngoái Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cảnh báo sự phát triển bùng nổ của các ngân hàng trong bóng tối gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính của đất nước và tăng tính thiếu minh bạch của hệ thống (tài chính).   Chẳng có gì gọi là ngạc nhiên khi doanh nhân Đức ngày càng mất tin tưởng vào quốc gia đầy hy vọng trong quá khứ này là Trung Quốc. Tuy vẫn còn thu hút với doanh thu bán hàng hoá ngày càng tăng - nhưng nguy cơ cũng gia tăng.   Ở phương Tây cuộc khủng hoảng tài chính được lắng dịu, nhưng ở Trung Quốc lại đang ủ một thảm họa mới. Tin tức hôm qua được loan báo là nợ hàng tỷ của chính quyền cấp tỉnh đã được gia hạn tiếp. Rõ ràng là việc trả nợ không cần thiết phải nghĩ đến. Cựu giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Trung Quốc, Yukon Huang, đã viết trên báo Financial Times rằng, „các ngân hàng Trung Quốc quá lớn để quản lý, Chúng ta sẽ chứng kiến nhiều cuộc vỡ nợ và những cuộc khủng hoảng tài chính nhỏ, một hoặc thậm chí hai ...“   Mặt trái của sự phát triển bùng nổ tại Trung Quốc. Trong khi châu Âu đang tiếp tục trông chờ một giải pháp thuyết phục nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng nợ euro và Mỹ đang trên bờ vực thẳm của sự suy sụp ngân sách quốc gia, một nền kinh tế lớn khác tỏ vẻ không một chút ấn tượng về khủng hoảng là Trung Quốc. Tại Cộng hòa nhân dân hàng năm có trình báo số liệu thống kê về tình hình phát triển bùng nổ đặc biệt, năm 2013 các nhà kinh tế Trung quốc kỳ vọng nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 8,5%.   Một phép lạ xảy ra nhờ sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản lèo lái nền kinh tế thị trường? Thưa không. Bởi vì phép lạ phải được chứng minh, kiểm tra chặt chẽ hơn là chỉ qua một cơ chế rất tầm thường - sự gia tăng GDP chủ yếu là do các tỉnh và địa phương Trung Quốc, thí dụ như chi phí cho các dự án lớn xây nhà ở theo phương châm: tiền không không quan trọng.   Với phương pháp trên, các tỉnh và địa phương làm suy yếu hệ thống tài chính Trung Quốc từ bên trong ra bên ngoài - mặc dù trung ương Bắc Kinh làm ăn thực sự vững chắc. „Hàng chục ngàn các quan chức chính phủ cấp thấp cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đều có thể thực hiện các dự án đầu tư mà không cần được kiểm soát, giám sát“, kinh tế gia Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cảnh báo. Kết quả là: nợ lên đến nhiều nghìn tỷ (ức) nhân dân tệ, việc trả được nợ là hoàn toàn không chắc chắn, như các chuyên gia từng cảnh báo. Thoạt nhìn, hệ thống ngân hàng có vẻ mạnh mẽ, theo ông Pettis. Trong trường hợp của một cuộc suy thoái kinh tế, các ngân hàng tin tưởng rằng sẽ được nhà nước để được cứu trợ. Các khoản nợ của chính phủ tỉnh và địa phương theo một cuộc kiểm tra đặc biệt của nhà nước ít nhất là 25% tổng sản lượng GDP - ở Đức, mặc dù tình hình tài chính các thành phố, địa phương không mấy sáng sủa nhưng khoản nợ của thành phố chỉ với 5% GDP. Thậm chí chính phủ trung ương Bắc Kinh không hề biết được là bao nhiêu các khoản vay này không thể trả lại được.   Chính thức ngân hàng khai báo ít khoản nợ xấu. Các nhà phân tích hoài nghi những con số được khai báo này. Mục tiêu lợi nhuận cho các dự án nhà ở thường được nêu không thực tế. Nhà cửa thường được xây dựng một cách nhanh chóng và chỉ hai năm sau khi xây hoàn tất đã cần phải được cải thiện. Chính quyền địa phương sau đó cần nhiều tiền hơn. Các tỉnh trưởng hành động theo phương châm: „Bắc Kinh sẽ giải quyết.“   Một vấn đề của nợ Trung Quốc nữa là thời gian đáo hạn khác biệt của các khoản vay và các dự án mà họ tài trợ. Thời gian xây dựng một hệ thống xử lý nước thải hoặc một tuyến đường sắt đòi hỏi phải mất nhiều năm. Thời gian có thể đạt được lợi nhuận thường lên tới nhiều thập niên.. Chi phí cho các dự án này thường bằng các khoản vay nợ ngân hàng có kỳ hạn một vài tháng hoặc vài năm. „kỳ hạn trả nợ thực tế và thời gian đáo hạn của các khoản vay nợ cách nhau quá xa“ kinh tế gia Qu Hongbin của ngân hàng lớn HSBC.cho biết. Tiền, không phải là một vấn đề, bởi vì tỷ lệ tiết kiệm của Trung quốc trên 50%. „vật thiếu thốn là những công cụ (quản lý) tài trợ dài hạn.“   Trung Quốc không có những công cụ đó. Tài trợ bằng trái phiếu đòi hỏi phải có một thị trường thực sự trưởng thành, với việc đánh giá trung thực và thông tin minh bạch về những doanh nghiệp và chính quyền liên quan. "Trung Quốc đã thực hiện được một số vấn đề, nhưng chưa đủ“ , một doanh nhân người Đức cho biết. Những người có trách nhiệm rõ ràng là thiếu tính nhận thức vấn đề.   Tuy nhiên, ngay cả trong một nền kinh tế mà nhà nước chiếm ưu thế, một nguyên tắc cũng phải tuân giữ là: nếu mượn nợ thì tiền vay nợ cuối cùng phải được hoàn trả lại cho chủ nợ. Tiền của các ngân hàng trên thực tế là tiền do người dân Trung quốc tiết kiệm. Một ví dụ là Bộ Đường sắt Trung Quốc là một trong những tổ chức mang nợ cao nhất thế giới: bộ vay mỗi năm thêm gần một nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương với 118 tỷ euro. Theo nhà kinh tế Pettis là „một sự mất cân bằng to lớn“ và tiên đoán về trung hạn nước Cộng hòa nhân dân sẽ có „một thảm họa nợ nần“. Cứu trợ ngân hàng bởi nhà nước là điều không thể tránh khỏi.   Do đó, thống đốc ngân hàng trung ương Zhou Xiaochuan suy nghĩ phương cách làm thế nào qui trách nhiệm rủi ro này cho chính quyền cấp tỉnh. Đề nghị của ông là: phần lớn các khoản vay nợ của chính quyền tỉnh phải được bảo đảm bởi cư dân của tỉnh đó. Theo cách suy tính của Zhou Xiaochuan, chỉ khi nào có chủ nợ hoặc người bảo lãnh tại địa phương, thì chức năng kiểm soát mới thực sự được thực hiện.   Tựa: Das China-Risiko Tác giả: Finn Mayer-Kuckuk và Frank Sieren. Đăng trên trang nhất nhật báo Đức Handelsblatt ngày 31.01.2013 Chuyển ngữ: Nguyễn Hội  
......

Đại diện nhân sĩ trí thức trao Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992

Hồi 10h30’ sáng nay, thứ Hai 4-2-2013, một đoàn đại biểu gồm 16 nhân sĩ trí thức, đại diện cho 72 người đầu tiên trực tiếp ký tên và hàng ngàn đồng bào đã tham gia ký tên vào bản “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992”, đã đến Địa điểm tiếp nhận ý kiến đóng góp của nhân dân tại 37 Hùng Vương, Hà Nội, để trao bản Kiến nghị cho Ủy ban. Thành phần Đoàn đại biểu gồm: 1- Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội 2- Phan Hồng Giang, TSKH ngành nghiên cứu văn học, Hà Nội 3- Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn TNCS HCM – TPHCM, TPHCM 4- Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ KH & CN, Hà Nội 5- Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam, Hà Nội 6- Vũ Đức Khiển, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, Hà Nội (vắng mặt đột xuất). 7- Tương Lai, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội 8- Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội 9- Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH & KTVN, Hà Nội 10- Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội (Trưởng đoàn) 11- Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TPHCM 12- Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An 13- Hoàng Xuân Phú, GS, Viện Toán học, Hà Nội 14- Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa-Giáo dục & Thanh thiếu niên-Nhi đồng Quốc hội, Hà Nội 15- Nguyễn Trung, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội 16-  Tô Nhuận Vỹ, Nhà văn, Huế. Trước đó, Đoàn đã thông báo mời một số báo chí tới tham dự, đưa tin. http://anhbasam.wordpress.com/
......

Vietnam: Neue Verhaftungswelle

28. Januar 2013 Leider erweist sich die Vietnam-Petition als bitter nötig. Nach Informationen verschiedener Medien in Deutschland (Der Spiegel) und Österreich (Der Standard) stehen erneut 22 Dissidenten in Phu Yen vor Gericht, denen im schlimmsten Fall die Todesstrafe droht. Ich danke Herrn Dr. Hong An Duong für den Hinweis und bitte alle, die es noch nicht getan haben, die Vietnam-Petition zu unterzeichnen. https://www.openpetition.de/petition/online/verbesserung-der-menschenrec... (Josef Bordat)  http://jobo72.wordpress.com/2013/01/28/vietnam-neue-verhaftungswelle/ Viet Nam Lại thêm đợt bắt bớ 28.01.2013 Thỉnh nguyện thư cho Việt Nam (Vietnam-Petition) chứng tỏ là hết sức cần thiết. Theo các cơ quan truyền thông như ở Đức (báo Der Spiegel) và ở Áo (báo Der Standard) lại có 22 nhà bất đồng chính kiến bị sử ở tòa án Phú Yên, họ có thể bị án tử hình nếu lãnh án nặng nhất.                                                                                                              Tôi kêu gọi ai chưa ký bản thỉnh nguyện cho Viet Nam (Vietnam-Petition) xin mời vào link dưới đây để ký tên:https://www.openpetition.de/petition/online/verbesserung-der-menschenrec...                                                                                                                                                                      (Josef Bordat)
......

Prozess in Vietnam

28. Januar 2013, 10:42 Uhr 22 Dissidenten droht die Todesstrafe http://www.spiegel.de/politik/ausland/vietnam-dissidenten-droht-todesstrafe-a-880026.html http://www.dw.de/quo-vadis-vietnam/a-16574254 Tòa án CS xét xử 22 thành viên của “Hội đồng công luật công án Bia Sơn”. Ngày 28.12013, Tòa án CS tỉnh Phú Yên đưa ra xét xử 22 thành viên của “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” với tội danh gán ghép “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79, khoản 1, Bộ Luật Hình sự. 22 bị cáo này gồm các ông Phan Văn Thu (SN 1948), Từ Thiện Lương (SN 1950), Trần Quân (SN 1984), Lê Đức Động (SN 1983), Nguyễn Thái Bình (SN 1986), Lê Duy Lộc (SN 1956), Lê Phúc (SN 1951), Võ Thành Lê (SN 1955), Nguyễn Kỳ Lạc (SN 1951), Vương Tấn Sơn (SN 1953), Võ Ngọc Cư (SN 1951), Đoàn Đình Nam (SN 1951), Võ Tiết (SN 1952), Nguyễn Dinh (SN 1968), Đoàn Văn Cư (SN 1962), Phan Thanh Ý (SN 1948), Đỗ Thị Hồng (SN 1957), Trần Phi Dũng (SN 1966), Lê Trọng Cư (SN 1966), Phan Thanh Tường (SN 1987), Tạ Khu (SN 1947 ) và Lương Nhật Quang (SN 1987). Theo cáo trạng của CSVN thì từ năm 2003 đến tháng 2-2012, tại Khu du lịch sinh thái Đá Bia thuộc địa phận đèo Cả (xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên), ông Phan Văn Thu cùng với 21 bị cáo nêu trên đã thành lập một tổ chức với tên gọi “Hội đồng công luật công án Bia Sơn.”, mà cáo trạng cho là tổ chức chính trị. Cũng theo cáo trạng thì Tổ chức này thành lập 12 ban, 26 pháp hội và 4 nhóm chưa đặt tên pháp hội ở các địa phương như Phú Yên, Khánh Hòa, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang với 293 người tham gia.  
......

Bên Thắng / Bên Thua & Những Bức Tường Lòng

“Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là… chó dại!” Khi còn bị phân chia bởi bức tường Bá Linh, dân Ðức hay kể câu chuyện hài này: Có một con chó chui tường từ Ðông sang Tây. Thấy khách lạ nên lũ chó bên Tây Ðức xúm xít và tíu tít hỏi thăm: - Bên ấy có hội bảo vệ súc vật không? - Có chứ. - Có bác sĩ thú y không? - Có luôn. - Có thẩm mỹ viện và nghĩa trang dành riêng cho chó không? - Có tuốt. - Thế thì việc gì đằng ấy phải vất vả chui tường sang đây? - Tại vì ở bển bị cấm được cho… sủa! Tháng 9 năm 1989, bức tường Bá Linh bị đập đổ. Ðông Ðức được giải phóng. Từ đây, người dân được quyền ăn nói tự do, và chó có quyền… được sủa. Sự thống nhất nước Ðức về thể chế, cũng như về nhân tâm, tuy không phải là một tiến trình toàn hảo nhưng có thể được coi như là ổn thỏa – ngoại trừ đối với một số người. Họ là những di dân đến từ Việt Nam, theo như tường thuật của Alisa Roth: “Người Việt vẫn đang là nhóm Á Châu lớn nhất tại thành phố Bá Linh. Những nguời được mệnh danh là Người Việt miền Tây là những người miền nam Việt Nam, hầu hết là thuyền nhân mà trong những năm tiếp theo chiến thắng 1975 của cộng sản, họ đã đổ đến những vùng bây giờ là Tây Ðức.” “Còn nguời Việt miền Ðông là những nguời đến Ðông Ðức vào thập niên 1960 và 1970 cùng với các công nhân xuất khẩu từ những quốc gia cộng sản đang phát triển tới làm việc trong các nhà máy…” “… Cái cộng đồng nhỏ bé này hãy còn duy trì sự chia cắt với hai thế giới, hai phương trời cách biệt. Những ý thức hệ – từng xé nát nước Ðức và nước Việt Nam ra làm đôi – hiện vẫn còn luân lưu mạnh mẽ tại nơi đây…” Nó “mạnh mẽ” tới độ khiến một người dân bản xứ phải thốt lên rằng: “Bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây còn cao hơn cả bức tường của người dân Ðức đối với người dân Ðức.” (“Berlin’s Divide Lingers For Vietnamese Expatriates Capital’s East – West Gap Reflects Cold War Past,” San Jose Mercury News, 12 Jul. 2002:A1/ Việt Mercury 12 Jul. 2002: 1 + 69. Trans. Nguyễn Bá Trạc”). Nói như thế, nghe đã phũ phàng nhưng (vẫn) chưa …hết ý! Trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng – ấn bản 2001, Paris, nơi trang 70 – tác giả còn trích dẫn nhận xét của một người ngoại quốc khác về dân Việt, như thế này đây: “Ils ne s’aiment pas” (Chúng nó không ưa nhau đâu). Cha nội Parisien nào đó nói bậy bạ vậy mà… trúng phóc. Những phương tiện truyền thông và giao thông của thời hiện đại quả có làm cho trái đất nhỏ lại, và khiến cho loài người gần gũi với nhau hơn. Nhưng riêng với với dân Việt thì không. Nhất định là không. Người ngoài có vẻ “hơi” ngạc nhiên về thái độ “rất kém thân thiện” của dân Việt đối với nhau, trên bước đường lưu lạc. Họ sẽ ngạc nhiên chết (mẹ) luôn nếu biết rằng những “bức tường ô nhục” tương tự hiển hiện khắp chốn, kể cả ở Việt Nam, chứ chả riêng chi ở Berlin. Dù đất nước đã “thống nhất” hơn một phần tư thế kỷ, dân chúng giữa hai miền Nam/Bắc Việt Nam (rõ ràng) vẫn chưa gần nhau mấy. Đôi lúc, họ ăn ở cư xử với nhau cứ y như những kẻ phải sống trong một cuộc hôn nhân… cưỡng bách. Theo “truyền thống,” người Việt hay chia phe và họ thường nhìn nhau qua những “lỗ châu mai” từ những “pháo đài” của… phe mình. Họ hay gọi nhau là “tụi này” hay “tụi nọ” (tụi Công Giáo, tụi Phật Giáo, tụi Nam Kỳ, tụi Bắc Kỳ, tụi Trung Kỳ…). Gần đây, có thêm một “tụi mới” nữa – tụi thuộc… phe thắng cuộc! Và đó mới chỉ là những chuyện nhỏ, ở miền xuôi. Ở miền ngược, miền núi, hay còn gọi là miền cao, miền sơn cước (hoặc cao nguyên) thì còn nhiều chuyện… kỳ cục dữ nữa. Nơi đây, một phần dân tộc Việt vẫn chưa được nhìn nhận là người thường hay người Thượng. Họ bị coi là… “tụi mọi” và bị chính đồng bào mình (toa rập với cường quyền) cướp đoạt hết đất đai canh tác. Nghèo đói quá hoá “sảng” chăng? Khổ cực quá, cùng quẫn quá, bị chèn ép quá nên đâm ra gấu ó, cấu xé lẫn nhau chăng? Không hẳn đã thế đâu. Tại nước Ðức, ngay giữa một thành phố tự do và phú túc, “bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây (vẫn) còn cao hơn bức tường của người dân Ðức đối với người dân Ðức” mà. Hơn nữa, như đã thưa, những bức tường lòng (ô nhục) tương tự hiển hiện ở khắp nơi chứ đâu có riêng chi ở Berlin. Nơi đâu có người Việt quần tụ là tức khắc nẩy sinh những chuyện đố kỵ, chia cách, phân hoá, và đánh phá lẫn nhau túi bụi. Mỗi cộng đồng vẫn thường cần đến hơn một ban đại diện (dù tất cả những ban đại diện “dường như” không đại diện được cho bất cứ ai và cũng không mấy ai – thực sự- cần người đại diện). Tương tự, mỗi hội đoàn đều có tới hai hay ba ông (bà) chủ tịch, dù cả hội đoàn đều không mấy ai biết rõ là họ hội họp lại với nhau để làm gì. Mọi tổ chức (không chóng thì chầy) nếu không vỡ tan tành thì cũng bể thành vài mảnh! Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là … chó dại! “Sự kiện vô vàn phi lý, cực độ vô nghĩa, và bất lợi không lường này, đang diễn tiến kết thành hiện tượng phân hoá hỗn loạn, phân liệt khắc nghiệt, chia rẽ trầm trọng giữa những cá nhân, nhóm cá nhân, cộng đồng người Việt ” (Phan Nhật Nam, “Lời Khẩn Thiết Nhằm Chấm Dứt Hiện Tượng Phân Hoá“). Cũng theo tác giả bài báo vừa dẫn thì Cục Tình Báo Hải Ngoại, trực thuộc Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng Cộng Sản Hà Nội, là nguyên nhân gây ra những hiện tượng phân hoá tiêu cực kể trên. Những nhân viên của Cục Tình Báo Hải Ngoại e không tài ba đến thế. Chợ chiều rồi. Chúng nó (nếu có) cũng chỉ lo đánh quả mà thôi và chuẩn bị để chạy thôi. Thủ phạm không đến từ bên ngoài. Chúng phục sẵn trong “thâm tâm” của tất cả chúng ta. Khi còn nhỏ, tôi nhớ là đã đọc ở đâu đó – qua lời kể của Schopenhauer – một câu chuyện ngụ ngôn mà nội dung (đaị khái) như sau: Có một mùa Ðông lạnh đến độ muốn tồn tại muôn loài đều phải xích lại thật gần nhau để truyền cho nhau hơi ấm. Chỉ riêng có loài nhím vì lông quá nhiều, quá nhọn và không cách nào thu lại được nên đành… chờ chết! Dân Việt đang trải qua một mùa Ðông khắc nghiệt. Nếu chúng ta không vượt qua được những bức tường lòng hiện hữu, không xếp lại được những lông nhọn tua tủa tự mỗi người, và mọi phe nhóm đều nhất định “tử thủ” trong pháo đài của riêng mình thì (e) khó mà qua khỏi đuợc cơn quốc nạn này. Vấn đề không phải là mùa Ðông sẽ kéo dài vô tận mà vì đất nước (cũng như lòng người) sẽ bầm dập, te tua, tan nát, và tanh bành – sau đó. Nguồn : http://www.khoi8406hoaky.com/D_1-2_2-59_4-3653_5-20_6-1_17-1038_14-2_15-2/
......

Bản lên tiếng yêu cầu trả tự do cho 14 thanh niên yêu nước

  TỔNG SỐ CHỮ KÝ THU THẬP: 28480 chữ ký. http://thanhnienconggiao.blogspot.com.au/p/banlentieng.html Diễn tiến và kết quả luận tội, tuyên án của phiên tòa kéo dài 2 ngày, 8-9/1/2013, xét xử 14 thanh niên yêu nước tại toà án Vinh, Nghệ An của đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị quốc tế lên án, nhân dân phẫn nộ. Những người bị mang ra kết án gồm có các anh chị: Hồ Đức Hòa, Nông Hùng Anh, Lê Văn Sơn, Đặng Ngọc Minh, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Văn Duyệt, Hồ Văn Oanh, Thái Văn Dung, Nguyễn Đình Cương, Nguyễn Xuân Anh, Trần Minh Nhật. Họ đều là những công dân đầy nhiệt huyết, tận tâm phục vụ con người và xã hội, tràn đầy tình yêu đối với đất nước. Các thanh niên yêu nước này đã can đảm và hy sinh đời sống riêng tư vì mong muốn đất nước thoát khỏi vòng kềm tỏa, thao túng của Trung Quốc, dẫn đến việc mất chủ quyền, độc lập của đất nước. Hành động của họ phải được xiển dương và là mô phạm cho tuổi trẻ Việt Nam ngày hôm nay dấn thân cho Sự Thật, Công Lý và Hoà Bình. Chúng tôi ký tên dưới đây để: 1. Cực lực phản đối và phủ nhận bản án vừa được áp đặt đối với 14 thanh niên yêu nước này cũng như những bản án kết tội những người yêu nước khác; 2. Đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải thực thi pháp luật nghiêm chỉnh, chấm dứt việc bắt giữ tuỳ tiện phi pháp, đi ngược lại với công pháp quốc tế và trái với hiến pháp cũng như pháp luật Việt Nam; 3. Yêu cầu nhà nước trả tự do cho những người yêu nước đang bị bắt giữ về những tội danh gán ghép vô lý dựa trên công cụ là điều luật 79 và 88 của Bộ Luật Hình Sự, hai điều luật mơ hồ này đã đi ngược lại tinh thần của hiến pháp Việt Nam; 4. Xiển dương sự đóng góp của các nhà yêu nước. Thể hiện sự đồng cảm với những người bị đàn áp, bắt bớ và kết tội oan sai. Đồng thời quan ngại sâu sắc về cái gọi là một nhà nước pháp quyền. Việt Nam, ngày 27 tháng 1 năm 2013 Đồng ký tên:   THÂN NHÂN CỦA 14 THANH NIÊN YÊU NƯỚC 1. Ông Nguyễn Văn Chức – bố của Nguyễn Văn Duyệt 2. Bà Trần Thị Liệu – Mẹ của Nguyễn Văn Oai 3. Bà Hồ Thị Truyền – Chị gái của Hồ Văn Oanh 4. Ông Hồ Đức Hiền – Bố của Hồ Đức Hòa 5. Ông Trần Khắc Hiển – Anh trai của Trần Minh Nhật 6. Bà Nguyễn Thị Hóa – Mẹ của Phêrô Nguyễn Đình Cương 7. Bà Đinh Thị Oanh – Vợ của Phêrô Nguyễn Xuân Anh 8. Ông Đặng Xuân Hà – Anh trai của Đặng Xuân Diệu 9. Ông Thái Văn Hòa – Anh trai của Thái Văn Dung 10. Ông Đỗ Văn Phẩm – Cậu của Paulus Lê Sơn   CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN VINH 11. Linh Mục Giuse Trần Văn Phúc – Linh Mục Quản Xứ Ngọc Long- huyện Yên Thành -Nghệ An, Giáo Phận Vinh 12. Linh Mục JB. Nguyễn Đình Thục – Linh Mục Quản Nhiệm Đồng Lam – huyện Anh Sơn-NA, Giáo Phận Vinh 13. Linh Mục Phêrô Nguyễn Ngọc Giao – Linh Mục Quản Xứ Lãng Điền, huyện Anh Sơn – NA, Giáo Phận Vinh 14. Linh Mục Giuse Nguyễn Xuân Phương – Linh Mục Quản Xứ Yên Lĩnh – Anh Sơn-NA, Giáo Phận Vinh 15. Linh Mục Fx. Nguyễn Văn Lượng – Linh Mục Quản Xứ Sơn La – Đô Lương-NA, Giáo Phận Vinh 16. Linh mục Phêrô Hoàng Biên Cương – Linh Mục Quản Hạt Phủ Quì, huyện Nghĩa Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 17. Linh Mục GB Nguyễn Quyết Chiến – Linh Mục Quản Xứ Vĩnh Giang, Nghĩa Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 18. Linh Mục Giuse Nguyễn Ngọc Ngữ – Linh Mục Quản Xứ Đồng Lèn, Nghĩa Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 19. Linh Mục Pet Lê Đức Bắc – Linh Mục Quản Xứ Nghĩa Thành – Nghĩa Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 20. Linh Mục JB Đinh Công Đoàn – Linh Mục Quản Xứ Song Ngọc -Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 21. Linh Mục Antôn Nguyễn Văn Đính – Linh Mục Quản Hạt Thuận Nghĩa – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 22. Linh Mục Antôn Nguyễn Văn Thanh – Linh Mục Quản Xứ Cẩm Trường và Mành Sơn – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 23. Linh Mục Giuse Nguyễn Công Bình – Linh Mục Quản Xứ Thanh Đa – Quỳnh Thanh – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 24. Linh Mục Antôn Nguyễn Duy An – Linh Mục Quản Xứ Lộc Thủy và Phú Yên – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 25. Linh Mục Phêrô Nguyễn Văn Sơn – Linh Mục Quản Xứ Thuận Giang – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 26. Linh Mục Paul Nguyễn Xuân Tính – Linh Mục Quản Xứ Lập Thạch -Nghi Lộc, NA, Giáo Phận Vinh 27. Linh Mục Giuse Phan Sĩ Phương – Linh Mục Quản Hạt Cửa Lò – Thị xã Cửa Lò, NA, Giáo Phận Vinh 28. Linh Mục Antôn Trần Văn Niên – Linh Mục Quản Xứ Phù Long – Hưng Long – Hưng Nguyên, NA, Giáo Phận Vinh 29. Linh Mục Antôn Đặng Hữu Nam – Linh Mục Quản Xứ Bình Thuận, Nghi Lộc, NA, Giáo Phận Vinh 30. Linh Mục Giuse Nguyễn Anh Tuấn – Linh Mục Quản Xứ Kẻ Gai – Hưng Nguyên, NA, Giáo Phận Vinh 31. Linh Mục Luca Nguyễn Ngọc Nam – Linh Mục Quản Xứ Thượng Nậm – Nam Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 32. Linh Mục JB Hoàng Xuân Lập – Linh Mục Quản Xứ Vạn Lộc – Nam Lộc – Nam Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 33. Linh Mục Giuse Phạm Ngọc Quang – Linh Mục Quản Xứ Yên Lạc – Nam Lĩnh – Nam Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 34. Linh Mục Giuse Nguyễn Đình Linh – Linh Mục Quản Xứ Phi Lộc – Diễn Quảng – Diễn Châu, NA, Giáo Phận Vinh 35. Linh Mục Phanxico X. Đinh Văn Minh – Linh Mục Quản Xứ Yên Hòa – Quỳnh Vinh – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 36. Linh Mục Giuse Nguyễn Đăng Điền – Linh Mục Quản Xứ Nghi Lộc – Diễn Hạnh – Diễn Châu, NA, Giáo Phận Vinh 37. Linh Mục Gioan Nguyễn Đức Quyến – Linh Mục Quản Xứ Yên Lý – Diễn Yên – Diễn Châu, NA, Giáo Phận Vinh 38. Linh Mục Phêrô Nguyễn Văn Hà – Linh Mục Quản Xứ Kẻ Dừa – Thọ Thành – Yên Thành, NA, Giáo Phận Vinh 39. Linh Mục Lu-y Nguyễn Văn Nga – Linh Mục Quản Xứ Kim Lâm – Can Lộc – Hà Tĩnh, Giáo Phận Vinh 40. Linh Mục Phanxicô X. Nguyễn Tất Đạt – Linh Mục Quản Xứ Làng Anh – Nghi Phong – Nghi Lộc, NA, Giáo Phận Vinh 41. Linh Mục Antôn Hoàng Trung Hoa – Linh Mục Quản Xứ Làng Nam – Nghi Trung – Nghi Lộc, NA, Giáo Phận Vinh   CÁC VỊ TU SĨ TÔN GIÁO KHẮP NƠI 42. Hòa Thượng Thích Không Tánh – Chùa Liên Trì, Sài Gòn – GHPGVNTN 43. Cụ Lê Quang Liêm – Hội Trưởng Giáo Hội Trung Ương PGHH Thuần Túy, Phú Nhuận Sài Gòn 44. Linh mục Phê-rô Nguyễn Hữu Giải – Tổng Giáo phận Huế 45. Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi – Giáo phận Bắc Ninh 46. Linh Mục Antôn Lê Ngọc Thanh – DCCT Sài Gòn 47. Mục Sư Nguyễn Mạnh Hùng – Quản Nhiệm Hội Thánh Mennonite Bình Tân (còn gọi là Hội Thánh Chuồng Bò), Sài Gòn 48. Mục Sư Thân Văn Trường, – Thủ Đức Sài Gòn 49. Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa – Giáo Hội LuTheran Việt Nam 50. Mục Sư Hồ Hữu Hoàng – Giáo Hội LuTheran, Đồng Nai 51. Mục sư Nguyễn Trung Tôn – Thanh Hóa   MỘT SỐ NHÀ DÂN CHỦ 52. Cô Phạm Thanh Nghiên – Hải Phòng 53. Bà Dương Thị Tân – vợ Blogger Điếu Cày, Saigon 54. Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Ban điều hành Khối 8406, Saigon 55. Ông Nguyễn Bắc Truyển – Sài Gòn 56. Ông Lê Thăng Long – Phong Trào Con Đường Việt Nam, Sài Gòn 57. Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston, Hoa Kỳ, Ban điều hành Khối 8406 58. Bà Lư Thị Thu Trang – Saigon, Thành viên Khối 8406 59. Ông Trần Quốc Hiền – Thành viên Khối 8406, Bangkok Thái Lan 60. Ông Phạm Ngọc Thạch – Sài Gòn 61. Anh Lê Thanh Tùng – Sài Gòn 62. Anh Đinh Văn Minh – Sài Gòn 63. Chị Hoàng Thị Ngọc Oanh – Sài Gòn 64. Anh Nguyễn Vĩnh – Đồng Nai 65. Anh Trần Văn Túc – Đồng Nai 66. Nhà báo Trương Minh Đức – Sài Gòn 67. Cựu tù nhân Cổng Trời Antôn Lê Phiến – Xã Long Sơn – Anh Sơn – Nghệ An, Giáo Phận Vinh http://www.chuacuuthe.com/?p=46057   Để cuộc vận động đạt được kết quả tốt đẹp và tạo thành một áp lực lên nhà cầm quyền CSVN, gia đình 14 thanh niên yêu nước rất mong mỏi quý đồng bào, quý đoàn thể, đảng phái và các cơ quan truyền thông góp phần phổ biến rộng rãi Bản Lên Tiếng và vận động mọi người vào ký tên tại địa chỉ : http://thanhnienconggiao.blogspot.com.au/p/banlentieng.html    
......

Vài nét về Hiến pháp Mỹ

Cách đây 230 năm, năm 1783, cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành được thắng lợi – đây là thành công đầu tiên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn thể loài người bị áp bức trong thời đại tư bản chủ nghĩa!Một Hiến pháp có trước… nhà nước Điều “lạ kỳ” là sau thắng lợi đó, những nhà cách mạng Mỹ không thành lập một chính quyền cho tương xứng với công lao của những người đã khai sinh ra nền độc lập; hầu như họ không quan tâm đến việc ai sẽ giữ chiếc ghế nào, “ăn chia” ra sao chiếc bánh lợi quyền béo bở mà phải mất bao xương máu, suốt 10 năm trời mới giành được (17.12.1773-4.9.1783): Cách hành xử của những nhà cách mạng Mỹ chưa hề có tiền lệ – ai về nhà nấy, sau khi đã làm trọn bổn phận công dân, không cần biết đến chuyện nên (phải?) khen thưởng ai, như thế nào đối với sự “có công với cách mạng”! Ý định đó của sự ấu trĩ của lòng tốt nhanh chóng bị thực tế tàn nhẫn của xã hội sau chiến tranh giày xéo, tình trạng vô chính phủ nhanh chóng xảy ra, tiểu bang nào cũng muốn giành cho mình sự độc quyền cao nhất, có lợi nhất, khiến cho 13 tiểu bang gây ra bao cảnh huynh đệ tương tàn, và “nước” Mỹ, theo cách nhận xét của George Washington, “giống như một lâu đài được xây bằng cát”. Muốn khắc phục tình trạng đó, giải pháp duy nhất là phải thành lập một chính quyền, đây là điều mà đến năm 1787, hầu như ai cũng biết. Nhưng, chính quyền đó sẽ ra sao? Nó giống với mô hình Pháp hay Anh? Những bậc tiên tổ của nhà nước Mỹ tương lai giật mình bởi họ đoan quyết rằng phải thành lập một mô hình nhà nước hoàn toàn mới, không giống với bất kỳ ai; và, quan trọng nhất, nó phải là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Sáu chữ đó là sáu chữ vàng bởi nó trở thành nền tảng, cội nguồn, nguyên tắc bao trùm mọi nguyên tắc trong suốt quá trình soạn thảo Hiến pháp (HP). G. Washington, nguyên là Tổng Tư lệnh quân Cách mạng trước đây, được mời giữ ghế chủ tọa Hội nghị Lập Hiến. 55 con người trẻ tuổi (đa số dưới 40 tuổi, riêng A. Hamilton, vào năm 1787, chỉ mới 30 tuổi; J. Madison mới 36 tuổi – họ được coi là những cha đẻ của HP Mỹ) chính là các tinh hoa chính trị được tập hợp từ các tiểu bang, về sau được ca ngợi đó là những người tinh anh nhất, “gần như là thánh thần” của nhân loại vào cuối thế kỷ 18. Những gì lịch sử ca ngợi về tài năng của 55 người đó không hề quá lời: Chẳng hạn, Benjamin Franklin (1706-1790) là một người đa tài: thợ in, chủ tòa báo, thẩm phán, Chủ tịch Hội Triết học Mỹ, thống đốc tiểu bang, nhà ngoại giao, thương gia giàu có, người thành lập Đại học Pensylvania, người phát minh ra cột chống sét, ống thông tiểu, đàn harmonica, kính hai tròng, công ty cứu hỏa tư nhân và, ông nói thành thạo 5 ngoại ngữ… Tài năng, nhân cách và tầm nhìn vĩ đại đã được cộng hưởng để làm ra bản HP đầu tiên trong lịch sử loài người mà hầu như, không có bất kỳ một lỗi văn bản lớn nào! 55 “cha đẻ” của nhà nước Mỹ, trong đó nổi bật nhất là Alexander Hamilton (hình của ông được khắc trên tờ 10 USD), James Madison (người có hình trên tờ 50 USD) và Benjamin Franklin (trên tờ 100 USD)… Ngày 25.5.1787, Hội nghị Lập pháp được khai mạc tại Philadelphia– “thành phố của tình huynh đệ”. Gần bốn tháng ròng rã, những cuộc tranh luận quyết liệt đã nổ ra và tận cho đến lúc đặt bút ký (17.9), nhiều đại biểu vẫn còn chất chứa những bất đồng. Bản dự thảo và những bất đồng đó còn được 5 triệu người dân xem xét kỹ lưỡng trước khi được Quốc hội chính thức thông qua vào năm 1789. Nhìn chung, HP Mỹ đã được làm ra trên cơ sở những định hướng tìm tới sự hoàn hảo có thể; được cụ thể hóa thành nhiều nguyên tắc do nhiều đại biểu đề xuất, được A. Hamilton và J. Madison diễn đạt phần nào qua những bài báo rồi tập hợp thành tác phẩm Liên bang thư tập (The Federalist Papers).Những nguyên tắc lập phápChúng ta muốn tạo dựng một nền tảng (HP) sẽ trường tồn qua mọi thời đại, vậy thì, phải dự liệu đủ những thay đổi mà các thời đại đó sẽ tạo ra. Nguyên tắc này khẳng định rõ những điều không bao giờ thay đổi như quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm; quyền sống, quyền tự do và quyền kiếm tìm hạnh phúc như Tuyên ngôn Độc lập đã chỉ ra; quyền người dân ủy nhiệm cho chính quyền, nhân dân có quyền bầu lên và bãi nhiệm chính quyền đó… Tất nhiên, có rất nhiều điều sẽ thay đổi nên HP dự liệu các khoản bổ sung – Tu Chính Án (Amendment, TCA), chẳng hạn, TCA 22, thông qua năm 1951, quy định tổng thống không được làm quá hai nhiệm kỳ.Việc thành lập một chính quyền thích hợp phải do chính người dân lựa chọn thông qua sự biểu quyết rộng rãi nhất. Không một ai có quyền áp đặt mô hình nhà nước không tương thích với mong muốn và lợi ích của người dân. Sau rất nhiều tranh cãi, nhân dân Mỹ đã chọn mô hình nhà nước tam quyền phân lập; theo đó, một trong ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, luôn bị hai cơ quan kia giám sát.Xu hướng sửa đổi HP để mưu đồ quyền lực nhiều hơn cho một vài cá nhân là xu hướng lạm quyền của mọi quyền lực; vì thế, phải thiết lập một cơ chế sao cho có thể ngăn ngừa mọi ý đồ thao túng và sửa đổi HP. Theo nguyên tắc này, quyền tham gia của mọi công dân là tối hậu chỉ khi nào có trên 2/3 thượng nghị sĩ hoặc thống đốc bang yêu cầu thì việc xem xét sửa đổi HP mới được đặt ra. Quy định này có nghĩa là, nếu muốn xóa bỏ quyền được trang bị vũ khí, phải có ít nhất 67 TNS hoặc 34 thống đốc bang yêu cầu.Xu hướng lạm quyền và lộng quyền là thuộc tính tất nhiên của con người, vì thế, phải thiết lập cơ chế sao cho đủ khả năng để ngăn chặn mọi ý đồ lạm quyền đó. Ngoài cơ cấu tam quyền phân lập, HP Mỹ còn định rõ cơ chế các thành viên của Tòa án Tối cao, các thẩm phán của tòa án khu vực trong toàn liên bang, được giữ quyền trọn đời, nếu không xin nghỉ hưu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo (tâm thần, bệnh suy giảm trí nhớ…). Như vậy, tòa án sẽ không phải chịu bất kỳ áp lực nào từ phía chính quyền hoặc cử tri!Đảng phái là cội nguồn của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa bè phái, đến lượt nó, chủ nghĩa bè phái là cội nguồn làm vẩn đục HP. Vì thế, cơ cấu tổ chức chính quyền không cho phép bất kỳ đảng phái nào có thể can thiệp vào bộ máy một cách trực tiếp. Mỗi đảng phái, trước HP, chỉ là một tổ chức công dân, chịu sự điều chỉnh, giới hạn của luật pháp.Đa số người dân là thờ ơ với chính trị, vì thế, phải thiết lập cơ chế sao cho hạn chế đến mức thấp nhất sự vô trách nhiệm của người dân đối với việc bầu ra chức vụ lãnh đạo cao nhất. Nguyên tắc này khẳng định cách bầu cử, theo đó, tổng thống sẽ được quyết định bởi số đại cử tri tương đương với số lượng nghị sĩ của mỗi tiểu bang.Các tiểu bang lớn luôn có xu hướng chèn ép các tiểu bang nhỏ hơn, vì thế, cơ chế tổ chức nhà nước phải hạn chế đến mức thấp nhất sự chèn ép này. Đây là lý do để các tiểu bang dù lớn hay nhỏ đều có hai thượng nghị sĩ trong thượng viện. Bất kỳ một đạo luật nào dù Hạ viện đã thông qua (nơi các bang lớn có lợi thế) đều phải được Thượng viện chuẩn y, và ngược lại.Các cơ quan tư pháp dễ bị mua chuộc và lạm dụng, vì thế, phải có thiết chế cho người dân được quyền giám sát, quyết định trực tiếp đến các phán quyết tối thượng của tòa án. Nguyên tắc này đề ra cơ chế thành lập bồi thẩm đoàn (The Jury), do người dân bầu ra. Các viên chức của ba cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp không được tham gia vào bồi thẩm đoàn. Phán quyết của bồi thẩm đoàn về có tội hay không, mức án, là tối thượng.Việc thay đổi hay ban hành các điều luật mới luôn ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người dân. Do đó, phải thiết lập cơ chế để hạn chế đến mức thấp nhất sự ban hành hay thay đổi một đạo luật, ngăn chặn mọi xu hướng tắc trách khi ban hành các văn bản luật pháp. Nguyên tắc này bảo đảm sai sót ít nhất (hầu như chưa xảy ra, cho đến thời điểm này) về việc ban hành đạo luật mới. Khi một đạo luật được khởi xướng ở Thượng viện chẳng hạn, nó sẽ được trình cho Tiểu ban Tư pháp xem xét, sau đó trình lên Thượng viện. Nếu được thông qua, sẽ tiếp tục được chuyển sang Tiểu ban Tư pháp Hạ viện, rồi toàn thể Hạ viện; cuối cùng mới được trình lên tổng thống. Đạo luật được thông qua, sẽ mang tên người đề xuất – vừa để vinh danh vừa để tăng tính trách nhiệm của dự luật. Nếu tổng thống phủ quyết, trình tự sẽ được làm lại từ đầu.Quân đội, cảnh sát là công cụ của chính quyền nên phải tuân thủ các mệnh lệnh của chính quyền. Và, để ngăn ngừa sự lộng quyền, độc tài hóa, các quân nhân và cảnh sát đang tại ngũ không được phép tham gia vào cơ quan lập pháp. Nguyên tắc này mặc nhiên khẳng định rằng quân đội hay cảnh sát nếu họ vào thượng viện hay hạ viện, không có quyền phản kháng chính quyền, không có quyền được luận “tội” chính quyền, tức là không bảo đảm được năng lực tác chiến, vì khi luận “tội”, họ đang chống lại chính quyền. Quân nhân hay viên chức cảnh sát, muốn vào nghị viện, phải ra khỏi quân ngũ… Trên đây là vài khái lược về sự hình thành và các nguyên tắc lập pháp của nhà nước Mỹ – nhà nước hiện đại đầu tiên trong lịch sử loài người – một mô hình nhà nước chưa thể tìm thấy sự đối sánh nào khả dĩ hiệu quả hơn. Đó cũng là mô hình nhà nước chưa hề có tiền lệ với bản HP cho đến nay là độc nhất vô nhị, trường tồn, bất chấp sự thay đổi về thời gian và không gian. Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang chuẩn bị bước qua một thời khắc trọng đại bằng việc lấy ý kiến toàn dân để sửa đổi Hiến pháp 1992. Rất mong mỏi rằng việc lấy ý kiến đó không phải là chuyện hình thức, bởi một sự thật giản dị: Nếu ngay cả HP cũng chỉ là bàn để cho vui thì không có cái gì trên đời này có thể được coi trọng! Một bản Hiến pháp khoa học, nhân văn, phù hợp ý nguyện của toàn dân, xu thế của mọi thời đại, chắc chắn là nguyên tắc, điều kiện đầu tiên cho sự phát triển vững bền… Không phải ngẫu nhiên mà Lời Tuyên thệ của Tổng thống Mỹ chỉ có một ý ngắn gọn là BẢO VỆ HIẾN PHÁP. Một khi HP được soạn thảo hoàn chỉnh thì mọi cố gắng của công dân – kể cả TT, chỉ duy nhất một vấn đề là bảo vệ để thực thi đúng như HP đặt ra, không cần bất kỳ một sự thêm, bớt nào bởi những thêm hay bớt đó đều làm vẩn đục HP! Huế, 24.1.2013H. V. T.http://www.boxitvn.net/bai/44649            
......

Đọc “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức

Huy Đức, tên thật là Trương Huy San, sinh năm 1962 tại Hà Tĩnh, năm nay 51 tuổi. Khi những chiếc xe tăng đầu tiên của quân đội Cộng sản Bắc Việt xô sập cổng Dinh Độc Lập tại Sài gòn và chấm dứt cuộc nội chiến ông mới lên 13, một tuổi còn quá nhỏ để hiểu ý nghĩa lịch sử của nó. Ông nhập ngũ năm 17 tuổi và trở thành sĩ quan, công tác một thời gian tại chiến trường Cambodia, trước khi trở về làm báo. Năm 2005,  ông được chính quyền Hà Nội gởi đi tu nghiệp tại Maryland, Hoa Kỳ. Năm 2006 về nước, tiếp tục làm báo. Năm 2012 ông lại được gởi qua đại học Harvard, một đại học nổi tiếng tại Hoa Kỳ để nghiên cứu về “phân tích chính trị”.  Gởi học viên đi tu nghiệp tại các nước tư bản là một phần trong chương trình đào tạo chính quy các nhà lãnh đạo tương lai tại Trung quốc khi thế giới bước vào kỷ nguyên “toàn cầu hóa” (1). Ông Huy Đức đang ở Hoa Kỳ khi cho xuất bản bộ sách “Bên Thắng Cuộc”             Theo tác giả, khi có cơ hội tiếp cận với miền Nam, ông –cũng như bà Dương Thu Hương – nhận thấy miền Nam không giống gì với những điều đảng Cộng sản Việt Nam đã dạy dỗ ông. Từ năm 1980, vừa làm báo ông vừa để tâm thu thập tài liệu để viết một tài liệu về cuộc chiến Việt Nam để tự trả lời các thắc mắc của chính mình đối với các hiện tượng chính trị và xã hội trước mắt. Và công việc biên soạn này trở thành một thúc bách khi tình hình khối Cộng sản quốc tế biến chuyển một cách căn bản .             Tại Liên bang Xô viết, Gorbachev đề ra chương trình cởi mở chính trị “glasnost” và cải tổ hành chánh “perestroika” đưa đến sự sụp đổ của Đông Âu. Năm 1986 tại Đại Hội 6, đảng Cộng sản Việt Nam quyết định “đổi mới”. Và cuối thập niên 1980  Liên bang Xô viết sụp đổ, đảng Cộng sản Liên xô bị giải tán.             Huy Đức có cơ hội và được phép sưu tầm tài liệu cũng như tiếp xúc và phỏng vấn các nhân vật chính yếu của chế  độ cho thấy anh được khuyến khích và giúp đỡ. Một luồng tư tưởng mới hay một sáng kiến ở sau lưng dự án?             Bộ sách “Bên Thắng Cuộc” hoàn tất năm 2012 được Huy Đức trình bày thành 2 cuốn. Cuốn I “Bên thắng Cuộc: Giải phóng”, cuốn II “Bên Thắng Cuộc: Quyền bính”. Hai cuốn sách gộp lại dày 1000 trang cỡ chữ 11, gồm 22 Chương, 195 Danh Mục Tác phẩm và 52 Hồi ký, Bản thảo truyền tay trong nước được dùng để tham khảo, với 1262 mục chú thích . Phần chú thích (Cuốn I 82 trang, cuốn II 66 trang) tổng cộng 148 trang là một phần không thể tách rời với bộ sách. Tác giả để riêng ra để cho phần trình bày có tính liên tục.             Bộ sách của Huy Đức là một tác phẩm đồ sộ. Đồ sộ ở bề dày của nó đã đành, nó còn “đồ sộ” ở chỗ tác giả  của nó là một người Cộng sản nhưng không viết để ca ngợi chiến thắng và tuyên truyền cho tính vô địch của chủ thuyết Mác- Lê Nin.             Cuốn sách là một tài liệu lịch sử mặc dù tác giả không trình bày dưới lăng kính của một nhà viết sử. Tác giả đóng vai một bác sĩ giải phẫu mổ xẻ một cơ thể, trình ra những sự kiện lịch sử có chứng liệu. Trong đó những nhân vật lịch sử suy nghĩ, hành xử và thao tác trước thực tế khách quan.             Cuốn sách trình bày một cuộc sống lịch sử có tính nhân sinh sống động. Qua đó người đọc đôi khi thấy quy luật của cuộc sống át hẵn quy luật lịch sử. Ông Võ Văn Kiệt, ông Đỗ Mười, ông Lê Duẫn …, ông Nguyễn  Văn Thiệu, ông Kissinger … , ông Võ Nguyên Giáp , ông Văn Tiến Dũng …  tuy vẫn còn là những Thủ tướng, những Tổng Bí thư, Tổng thống, Cố vấn chính tri. …, những ông Tướng … nhưng chính yếu dưới ngòi bút của Huy Đức là những con người bằng xương bằng thịt lấy những quyết định lịch sử của mình liên quan đến cái sống và cái chết của hằng trăm ngàn người khác như một con người trước thực tế sinh động và hạn chế của nó.             Những ai quan tâm đến những biến chuyển của lịch sử diễn ra trên đất nước chúng ta trong 60 năm qua tìm thấy qua bộ sách “Bên Thắng Cuộc” một bức tranh hậu trường trọn vẹn bên phe xã hội chủ nghĩa. Tác giả gạn lọc và trình bày một bức tranh nối kết  sự kiện này với sự kiện khác một cách nhân quả (causal). Đối với các nhà nghiên cứu, cuốn sách cung cấp những sử liệu về người và việc từ trước đến nay không có sẵn  sàng như vậy.             Cuốn “Bên Thắng Cuộc” là một cuốn sách nói về những cay đắng của người thắng cuộc. Thắng xong mới thấy mình mới là kẻ bại trận. Cuốn sách cũng chứa đựng những oái oăm của cuộc sống . Chỉ riêng mối tình của Lê Duẫn với bà Nguyễn Thụy Nga người vợ thứ do Đảng cưới cho ông tại Cà Mâu năm 1948 trong thời gian chống Pháp đã có đủ chất liệu cho một thiên tình sử. Ông Duẫn có những ngày hạnh phúc với bà Nga khi ông còn lãnh đạo phong trào Cộng sản ở miền Nam trước Hiệp Định Geneve năm 1954. Năm 1957 khi ông được điều ra Bắc trở thành Bí thư thứ nhất của đảng với quyền uy chính trị chỉ sau ông Hồ Chí Minh ông đã không bảo vệ nổi bà Nga trước lối sống công thức giữa một thủ đô vừa lấy lại trong tay người Pháp và áp lực của người con gái lớn của bà vợ cả. Bà Nga được gởi đi học và sống một mình ở Trung quốc 5 năm, sau đó trở lại miền Nam tham gia cuộc đấu tranh chống chính quyền miền Nam. Vợ ông Võ Văn Kiệt, bà Trần Kim Anh và hai con nhỏ bị bom chết năm 1966 trên đường di chuyển từ Bến Cát đến căn cứ Củ Chi ông Kiệt gặp khó khăn trong đời sống gia đình cho mãi đến năm 1984 khi cưới bà Phan Lương Cầm, con ghẻ tướng Phan Tử Lăng và vẫn không yên với dư luận vì bà Cầm quá mới! Tách chúng ra khỏi cuốn sách đó là những mối tình rất con người. Nó bị cọ xác và đầy đọa bởi chiến tranh, phân ly, ghen tuông, quyền lực và phong tục tập quán.             Tôi còn nhớ một bi kịch xẩy ra tại trại cải tạo Lam sơn, trong tỉnh  Khánh hòa khi tôi đang bị giam tại đó cuối năm 1975 giữa một cán bộ Cộng sản và một Trung úy quân đội Việt Nam Cộng Hòa trẻ tuổi. Trong một buổi lên lớp khi người cán bộ xỉ vả học viên là phản bội tổ quốc, viên Trung úy đứng lên nói, anh không phản bội ai cả. Anh nói: “Nếu Mẹ tôi sinh tôi ra trên vĩ tuyến 17 thì bây giờ tôi cũng đang đứng chỗ của anh và có thể đang mắng nhiếc anh là phản quốc.” (2)              Trong thời gian sau cuộc cách mạng tháng 8/1945, người Pháp trở lại, nhưng một số vùng như Thanh-Nghệ -Tỉnh, Bình Định-Phú Yên, Cà Mâu -Đồng Tháp vẫn nằm trong vòng kiểm soát của phe kháng chiến do đảng Cộng sản lãnh đạo, và nhiều thanh niên vì điều kiện địa lý này đã ở bên này hay bên kia và có khi anh em một nhà biến thành kẻ thù bắn giết nhau. Bên thắng hay bên thua chỉ là ngẫu nhiên của lịch sử và may mắn hay rủi ro của từng số phận. Cái còn lại là cái tâm.             Nhưng có cái tâm tốt chưa chắc vượt ra khỏi nghịch cảnh. Sau năm 1975 ông Võ Văn Kiệt giữ chức vụ lãnh đạo tại Sài gòn- Gia Định ông cũng phải ngăn sông cấm chợ để cho dân Sài gòn nằm trên vựa lúa mà đói. Guồng máy buộc ông làm vậy nếu ông không muốn bị kết án là phản cách mạng, phản bội nguyên tắc kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa! Nhưng ít nhất ông Kiệt còn trăn trở tìm lối thoát ra khỏi cái gông tự tròng vào cổ mình của đảng.  Bên cạnh còn biết bao kẻ tầm thường tin tưởng tuyệt đối chủ thuyết Mác Xít: Đỗ Mười, Võ Chí Công, Đào Duy Tùng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh … Thật khó mà định giá những nhân vật như Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Lê Đức Thọ … để biết họ muốn gì. Họ là những tay “ma nớp” quyền lực như một thú vui trong khung cảnh lịch sử mà họ đang sống?             Huy Đức vẽ con người rất con người và các sử gia nếu muốn  nghiên cứu các lãnh tụ Cộng sản Việt Nam thì bộ sách của Huy Đức là một nguồn tài liệu phong phú muôn màu muôn vẻ.             Nhưng nét nổi bật nhất của bộ sách là đường nét ngây ngô của bộ máy Đảng. Cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, ngăn sông cấm chợ, sở hữu công của tư liệu sản xuất, đất đai thuộc về toàn dân là những nhát búa đảng Cộng sản tự đập vào chân mình.                  Bộ sách “Bên Thắng Cuộc” cho thấy trong thập niên 1980 đảng Cộng sản Việt Nam đã vùng vẫy để thoát hiểm trước cơn giông tố đang làm lung lay tận gốc phong trào cộng sản thế giới. Gorbachev tại Liên xô. Đặng Tiểu Bình ở Trung quốc với “mèo trắng mèo đen mèo nào cũng tốt miễn là bắt được chuột”. Thắng cuộc, nhưng Việt Nam phải “đổi mới” để tồn tại. Nhưng “đổi mới” mà không có chính sách. Chỉ có những bước mò mẫm trong sương mù của “kinh tế thị trường” không định hướng,  ngoại trừ “định hướng xã hội chủ nghĩa” để níu kéo lĩnh vực quốc doanh cứu đảng.             Kết quả duy nhất của sự đổi  mới mà vẫn duy trì chế độ độc đảng là làm cho dân “có gạo ăn” nhưng không xây dựng được tiềm năng của quốc gia. Chính sách của quốc gia dựa vào trí tuệ giới hạn nếu không muốn nói là kém cỏi của “Bác”, của anh “Ba”, anh “Sáu”, anh “Mười” … một cách rất là tùy tiện.             Bộ sách của Huy Đức có một nét đặc thù là không những bày ra cái yếu kém của chủ nghĩa Mác, mà còn bày ra cái yếu kém của người Việt Nam. Người Việt Nam thông minh, nhưng thiếu cái nhìn lớn và vọng ngoại. Dân khổ triền miên vì vậy.             Nhìn bộ sách đồ sộ của Huy Đức khó mà nghĩ một cách đơn giản rằng đó là thành quả của một cá nhân. Anh Huy Đức dù xông xáo cũng khó tiếp cận với tài liệu nhất là tiếp cận phỏng vấn các nhân vật đang nắm quyền lực mà thói quen sinh hoạt của đảng là mật, cái gì cũng là mật.             Năm 1967 bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara trong khi điều hành cuộc chiến Việt Nam nhận ra sự phi lý của cuộc chiến mà quốc gia và cá nhân ông đang vướng vào, ông kín đáo cho lập một Ủy ban nghiên cứu các biến chuyển từ năm 1945 dẫn đến cuộc chiến tranh. Tài liệu nghiên cứu được gọi là “Hồ sơ của Lầu Năm Góc” (The Pentagon Papers). Bộ sách của Huy Đức có nét tương tự của Pentagon Papers. Phải chăng mục đích của bộ sách là thu thập dữ kiện một cách khách quan để tìm ra nguyên ủy của các mâu thuẫn ngự trị trên đất nước Việt Nam? Cái khác bề ngoài phải chăng là công việc truy tìm này được giao phó cho Huy Đức như một nghiên cứu cá nhân?             Bộ sách của Huy Đức phanh phui ra các dữ kiện tự nhiên từ việc này dẫn đến việc khác cho thấy tại sao chúng ta là nạn nhân. Nạn nhân của hoàn cảnh lịch sử, nạn nhân của các tranh chấp quốc tế, và trên hết là nạn nhân của chính tầm nhìn kém cỏi của chúng ta.             Nếu tài liệu “The Pentagon Papers” đã giúp cho nhân dân Hoa Kỳ  vượt qua “Hội chứng Việt Nam” để nhanh chóng hóa giải căng thẳng và sự chia rẽ trong xã hội do cuộc chiến Việt Nam gây ra thì bộ sách “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức cũng có thể là một liều thuốc hóa giải sự chia rẽ dân tộc Việt Nam giữa người thắng kẻ thua.             Câu hỏi then chốt là chúng ta đã sẵn sàng để hòa giải với nhau chưa?             Trong phần kết thúc cuốn sách tác giả kết luận: “Giá như không phải là ý thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân là nền tảng hình thành chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được “Nhân Văn Giai Phẩm, tránh được biết bao cuộc binh đạo xung đột trong nội bộ gia đình”.             Và giờ đây đảng Cộng sảnViệt Nam vẫn còn duy trì Điều 4 Hiến pháp nắm trọn quyền lãnh đạo đất nước, đảng vẫn chưa trả quyền tự do ngôn luận cho dân, đảng vẫn còn ràng buộc với ý thức hệ Mác xít chưa chịu trả quyền tư hữu và quyền sở hữu đất đai lại cho dân thì rõ là chưa có cơ hội hòa giải dân tộc .             Nhưng con đường thiên lý nào cũng phải bắt đầu bằng dặm đầu tiên. Bộ sách “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là bước bắt đầu và là một  bước tích cực của quá trình hoà giải dân tộc.   Trần Bình Nam Jan 23, 2013binhnam@sbcglobal.netwww.tranbinhnam.com  Chú thích:  (1)  Theo The Life of the Party: The Post Democratic Future Begins in China của Eric X. Li – “Foreign Affairs” Jan-Feb. 2013(2)  Cán bộ trại đã phạt nhốt viên Trung úy vào thùng sắt, loại connex quân đội Mỹ dùng chuyên chở quân dụng.
......

Bấm Huyệt Trị Bệnh

Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đem đến cho con người nhiều lợi ích về mặt thể xác. Thế nhưng người ta quá dựa vào những phương tiên này và quên đi những ‘quà tặng’ trời cho để có thể giúp phòng và tránh nhiều bệnh tật. Chúng tôi giới thiệu một số phương pháp của bác sĩ Cerney trong sách ‘Acupressure by acupressure’ (tạm dịch là châm bằng cách day bấm huyệt), nhà xuất bản New York 1982. Đó là những gì kinh nghiệm mà ông thu thập được sau 25 năm theo hoc và nghiên cứu về Đông y ở Trung Quốc, vì vậy, những kinh nghiệm này rất quý và có hiệu quả tốt mà chúng tôi đã thực hiện từ năm 1985 đến nay Mỗi buổi sáng, trước khi bắt đầu bước vào sinh hoạt hằng ngày, bạn chỉ cần bỏ ra chừng 10 phút để kiểm tra một số bộ phận cơ quan phủ tạng quan trọng và khi phát giác sớm các rối loạn (nếu có) và điều chỉnh ngay, sẽ mau phục hồi. Kiểm tra tim Ngửa bàn tay, ấn tìm ở kẽ xương ngón tay thứ 4 và 5 (huyệt Thiếu phu). Huyệt này cho biết những biểu hiện của tim. Hoặc nắm vào góc móng tay út, phía ngón áp út tức huyệt Thiếu xung, nếu huyệt này đau chứng tỏ tim làm việc quá sức. Nhớ rằng khi kích thích huyệt này có ảnh hưởng đến tim. Nắm 2 ngón tay vào huyệt này thật chặt, day mạnh và như lắc tay, có thể tăng sức khoẻ. Hoặc đặt ngón cái vào lòng bàn tay, chỗ khe xương ngón thứ 4 và 5 (Thiếu phủ). Ngón trỏ đặt ở phía đối diện (ở mu bàn tay - tức huyệt Trung chử). Xoa và bóp, không những trợ lực cho tim mà còn tăng sức cho cơ thể nữa. Kiểm tra phổi. Ngửa bàn tay, dùng ngón tay ấn vào chỗ lõm đầu lằn chỉ cổ tay (dưới ngón cái) tức huyệt Thái uyên, đồng thời gấp các ngón tay vào lòng bàn tay, đầu ngón tay trỏ chạm vào vùng thịt ở mô ngón cái (huyệt Ngư tế) để kiểm tra phổi. Day 2 huyệt này làm lượng ôxy trong phổi lưu thông qua đường kinh Phế. Kiểm tra ruột già. Khép ngón tay cái vào sát ngón trỏ, chỗ cao nhất của thịt lồi lên là huyệt (tức huyệt Hợp cốc), day và ấn vào huyệt này, nếu đau là ruột già không được tốt lắm. Nên ăn thức ăn nhẹ và dễ tiêu. Trong khi đó ấn vào huyệt này cho đến khi dưới ngón tay thấy hết đau. Huyệt đặc biệt này không những làm tan những chất độc tụ ở ruột già mà còn làm cho khỏi mất ngủ. Mỗi tối nên xoa ấn huyệt này là cơn mệt mỏi sẽ tiêu bớt. Kiểm tra thận và sinh thực tuyến (sinh dục). Để tăng lực hoạt động cho thận, bàng quang và sinh thực tuyến: Nắm chặt lấy gân gót chân và bấm mạnh, (tương đương các huyệt Côn lôn, Bộc tham của kinh Bàng quang, Chiếu hải, Thái khê của kinh Thận), ở đây mà thấy đau đều tương ứng với rối loạn ở thận, bàng quang, bộ phận sinh dục. Nhiều người thấy có dấu hiệu khoái cảm cao độ ở điểm này mà không rõ lý do tại sao. Dùng lòng bàn tay cụp vào gót chân (phía lòng bàn chân) bóp mạnh và sâu vào. Nếu ở đây thấy đau là sinh thực tuyến bị yếu. Ngược lại ấn vào điểm này sẽ tăng cường lực cho sinh thực tuyến. Điểm này cũng làm hết đau lưng và giữ một vai trò trong việc làm cho đầu gối hết cứng. Kiểm tra gan. Ấn sâu vào chỗ lõm giữa ngón chân cái và ngón thứ 2(huyệt Thái xung), nếu thấy hơi khó chịu là gan hoạt động yếu. Day mạnh để điều chỉnh. Dùng ngón tay cái và ngón trỏ đè vào gốc móng chân cái (cả 2 chân), day ấn khoảng 10 lần, để điều chỉnh đường kinh Can và Tỳ. Kích thích lưng Có thể nằm ngửa trên giường, hoặc ngồi dựa vào ghế và thực hiện như sau: Nắm đấm bàn tay vào rồi đặt vào mấu đốt sống lưng, song song cột sống. Động tác này không những làm cho háng bớt đau mà còn làm cho thần kinh toạ giảm đau. Co chân lên, duỗi ra. Giơ tay lên khỏi đầu duỗi ra, khi thực hiện động tác này thì thở sâu. Với cách thức này sẽ cảm thấy 1 cảm giác ấm chạy suốt thân thể. Vùng đau sẽ biến mất, vùng háng đang chịu đau sẽ bớt đau, cảm giác đau ở lưng, cột sống và vùng bụng trên, dưới sẽ bị vô hiệu hoá. Dùng tay ấn vào các đốt sống sẽ làm cho các chất độc ở đây tan đi. Kích thích gan mật Để bàn tay vào vùng sườn bên phải, vị trí của gan mật, cong tay bóp nhẹ, lần đầu tiên làm có hơi đau. Đau là dấu hiệu cho thấy có sự rối loạn bệnh lý ở gan. Sau vài lần kích thích, gan mạnh lên sẽ hết đau (đây là dấu hiệu cho thấy chúng ta thực hiện đúng phương pháp). Lần lên đến giữa xương ức (chấn thuỷ) cong tay lại, nắm chặt rồi thả ra 3 lần để kích thích mật. Tác động này cũng đẩy bớt hơi xả ra khỏi ống dẫn mật cũng như để tăng lực cho mật. Chuyển sang đến phía đối diện vùng bụng, dưới sườn trái. Nắm vào nhả ra 3 lần một cách từ từ. Cần nhớ là mỗi bộ phận ở bụng do thần kinh tuỷ sống điều khiển, nghĩa là cũng phải ấn vào những điểm điều khiển ở cột sống (dọc hai bên cột sống) Thí dụ: Khi mật tắc nghẽn sẽ có 1 điểm đau giữa vùng mật. Đây là huyệt phản ứng (a thị huyệt), cần xoa dịu huyệt này, ngoài ra còn phản ứng đau ở quãng ngay cột sống lưng thứ 5-9 (D5 - D9), có thể dùng 1 trái banh lông để lăn hoặc nhờ một người khác ấn ngón tay cái vào khi bạn nằm sấp. Chú ý: Lúc nào cũng thật nhẹ tay. Nếu đau ở bất cứ huyệt nào, ấn nhẹ cho đến khi hết đau. Nếu vẫn còn đau không ngừng, tạm ngưng để ngày khác sẽ làm. Giữ cho tiêu hoá tốt Vì thức ăn là một nguồn lực cho cơ thể, do đó việc tiêu hoá phải được duy trì để bảo tồn những nguyên tố của sức sống. Cụp các ngón tay của cả 2 bàn tay lại dưới phía sườn bên phải ấn vào vùng này là huyệt Nhật nguyệt (kinh Đởm), Phúc ai (kinh Tỳ). Nắm chặt vào đếm đến 3, buông ra, thơ mạnh, ấn vào lần nữa, đếm đến 3, làm 5 lần. Làm qua phía bụng bên phải, nơi huyệt Lương môn (kinh Vị - Rốn lên 4 thốn ra ngang 2 thốn). Rồi tới vùng chấn thuỷ, nơi huyệt Cưu vĩ và Cự khuyết (mạch Nhâm) cũng làm như vậy. Động tác này giúp tiêu hoá hoạt động, các tế bào được phục hồi, sức khoẻ phục hồi. Kích Thích Rốn Đặt ngón tay thứ 3 ( ngón giữa) vào lỗ rốn, ấn sâu vào, ấn vào vùng thấy đau, xoa quanh rốn nhè nhẹ đến những vùng chung quanh. Việc xoa quanh rốn làm giảm tác động đau và bớt mức độ mệt mỏi. Bây giờ đặt lòng bàn tay vào bụng, tay phải ở bụng phải, tay trái ở bụng trái lấy tay kéo và đẩy về phía cột sống làm 10 lần thật đều. Đẩy bụng dưới lên hướng sườn, làm nhẹ nhàng nhưng chắc chắn, có thể cảm thấy hoặc nghe thấy tiếng òng ọc là tốt. Dừng lại và nghỉ một chút rồi dậy uống một ly nước nóng. Mười phút để làm tăng sức Theo phương pháp của bác sĩ Cerney: Bất cứ lúc nào cơ thể cảm thấy mệt mỏi, mất sức, chỉ cần hơn kém 10 phút áp dụng thủ pháp kích thích dưới đây, có thể làm cho cuộc đời thay đổi hơn. 1. Kích thích đường kinh Tâm: nắm chặt ngón tay út và xoay qua xoay lại. Ngừng lại, kéo lên, cong về phía lòng bàn tay rồi xoay lại 1 lần nữa, làm vậy 5 giây. Bây giờ bóp mạnh đầu ngón tay giữa. Nắm chặt, thả ra, làm 3 lần, mỗi lần 3 giây. 2. Ấn vào khu ‘tim’ ở lòng bàn chân, có một vùng phản xạ mạnh ở ngang dưới đầu xương ngón chân thứ 4, chân trái. Dùng huyệt này để tăng lực tối đa, nên làm vào buổi sáng khi thức dậy. 3. Sờ vào những vùng căng cứng (đau) ở ngực trái. Đôi khi bên phải cũng có một ít, có thể có khối u nhỏ ở trong bắp thịt quanh tim, thường ở trên đường thẳng núm vú. Ấn và xoa cho đến khi chúng tan đi. Ở hố nách cánh tay trái dài xuống phía trong cũng làm vậy. Có thể làm cả cánh tay phải. Áp dụng xoa ấn trên đường kinh Tâm, cứ làm cách quãng, dài xuống ngón tay út. 4. Đặt tay vào vùng chấn thuỷ ấn vào 3 giây, thả ra, thở mạnh, rồi lại ấn, thả ra… làm 5 lần. Đứng dựa lưng vào cạnh khung cửa. Đặt những chỗ đau giữa thăn thịt giữa cột sống, ấn mạnh lưng và làm như vậy để kích thích thần kinh cột sống đối với tim. Đây là một cách tự động tạo nên 1 tín hiệu truyền lên não, từ đó truyền xuống tim khiến tim hoạt động mạnh hơn. Ở đáy sọ (chẩm) sẽ sờ thấy một điểm đau hoặc nhiều hơn, dài xuống cột sống. Ấn vào những huyệt này vì mỗi huyệt sẽ tăng lực cho cơ thể hoạt động. Sau cùng, tới vùng đáy sọ (huyệt Phong phủ), dùng ngón tay cái và ngón giữa ấn, xoa, bóp cho đến khi hết đau. Rồi chạy tay dài xuống 2 bên cột sống làm cho bắp thịt bớt căng thẳng. SƯU TẦM  Quan-Dieu  
......

Petition

Verbesserung der Menschenrechtssituation in Vietnam Von: Josef Bordat aus Berlin An:   Deutscher BundestagPetitionsausschuss in Deutschland   Die Bundesrepublik Deutschland möge mit allen gebotenen diplomatischen Mitteln sowohl in den bilateralen Beziehungen als auch über die Europäische Union und die Vereinten Nationen sowie ihre Unterorganisationen auf die Verbesserung der Menschenrechtssituation in der Sozialistischen Republik Vietnam einwirken. Begründung: Im Hintergrund der Petition stehen jüngste Verurteilungen katholischer Bloggerinnen und Blogger, die zeigen, dass insbesondere die Religions-, Meinungs- und Pressefreiheit in der Sozialistischen Republik Vietnam erheblich eingeschränkt sind. Seit Jahren kommt es in der Sozialistischen Republik Vietnam v. a. gegenüber katholischen Priestern und Laien zu staatlichen Repressionen, obgleich die Verfassung des Landes Glaubens- und Religionsfreiheit garantiert. Zugleich ist eine kritische Berichterstattung über die Politik der Regierung nur unter der Gefahr behördlicher Verfolgung möglich. Am 28. Dezember 2012 wurden nun die drei Dissidenten Nguyen Van Hai, Nguyen Tri Dung und Maria Ta Phong Tan in einem „show trial“ (AsiaNews) zu insgesamt 25 Jahren Haft verurteilt. Die Katholiken hatten in ihren Weblogs Korruptionsfälle der regierenden kommunistischen Partei bekannt gemacht. Nun stehen 14 weitere katholische Bloggerinnen und Blogger in Vietnam vor Gericht. Das Urteil gegen sie wird am 6. Januar 2013 erwartet. Ihnen droht für ihre „subversive Tätigkeit“ des Bloggens mit dem angeblichen Ziel, die „Herrschaft des Volkes zu stürzen“, im schlimmsten Fall die Todesstrafe. (Weitere Informationen: jobo72.wordpress.com/2013/01/03/vietnam-drei-katholische-blogger-in-haft/) Die Sozialistische Republik Vietnam hat den Internationalen Pakt über bürgerliche und politische Rechte sowie den Internationalen Pakt über wirtschaftliche, soziale und kulturelle Rechte ratifiziert und ist daher an ihre Verantwortung für die Wahrung der Menschenrechte (hier: der Religions-, Meinungs- und Pressefreiheit) zu erinnern. Es ist Aufgabe der Bundesrepublik, dies verstärkt zu tun. Dr. Josef Bordat (Berlin)   Im Namen aller Unterzeichner. Berlin, 03.01.2013 (aktiv bis 02.07.2013) Bitte unterschreiben Sie unter dem Link (xin mời vào link dưới đây để ký tên): https://www.openpetition.de/petition/online/verbesserung-der-menschenrec...  
......

44 Tướng Sĩ quân đội Đài Loan Làm Gián Điệp cho Trung Quốc

8 Thượng tướng 3 sao, 18 Trung tướng, 16 Thiếu tướng, 25 Thượng tá, 14 Trung tá, 4 Thiếu tá tham gia đường dây gián điệp của Bắc Kinh. Thời báo Hoàn Cầu ngày 1/1 dẫn nguồn tin tức tờ Apple Đài Loan cho hay, vụ Thiếu tướng La Hiền Triết, cựu Cục trưởng Thông tin bộ tư lệnh lục quân Đài Loan bị xử tù chung thân hồi năm ngoái do làm gián điệp cho Trung Quốc tưởng đã êm xuôi, nhưng gần đây lại lộ ra một bản danh sách 87 sĩ quan quân đội Đài Loan được cho là tham gia đường dây làm gián điệp cho Trung Quốc. La Hiền Triết, lon Thiếu tướng bị xử tù chung thân vì tội làm gián điệp cho Trung Quốc Đặc biệt trong số sĩ quan bị phát hiện làm gián điệp cho Trung Quốc bị phanh phui lần này có cả 2 viên quan chức cấp cao gồm Hoắc Thủ Nghiệp, Thượng tướng cấp 1 (4 sao, tương đương cấp Đại tướng) cựu Tổng tham mưu trưởng và Lâm Trấn Di, Tổng tham mưu trưởng sắp mãn nhiệm, lon Thượng tướng 4 sao. Hoắc Thủ Nghiệp,cựu Tổng tham mưu trưởng Đài Loan đã nghỉ hưu, lon Thượng tướng 4 sao Trước đó, giới chức Đài Loan ra thông báo, bắt đầu từ ngày 1/1/2013 sẽ bắt đầu điều chỉnh cơ cấu nhân sự Bộ Quốc phòng Đài Loan theo hướng tinh giản, trong đó hạ cấp quân hàm của ghế Tổng tham mưu trưởng từ Thượng tướng 4 sao xuống Thượng tướng 3 sao, vì vậy Lâm Trấn Di được cho là sắp nghỉ hưu và quân đội Đài Loan đang chuẩn bị nhân sự thay thế. Lâm Chấn Di, lon Thượng tướng 4 sao, Tổng tham mưu trưởng quân đội Đài Loan từ 2/2/2009 và chuẩn bị nghỉ Theo danh sách của tờ Apple Đài Loan tiết lộ, trong số 87 sĩ quan làm gián điệp cho Trung Quốc, ngoài 2 viên quan chức cấp cao nói trên còn có 8 Thượng tướng 3 sao, 18 Trung tướng, 16 Thiếu tướng, 25 Thượng tá, 14 Trung tá, 4 Thiếu tá tham gia đường dây gián điệp của Bắc Kinh. Trình Nhân Hoằng, một quan chức thuộc Ủy ban Giám sát Đài Loan nhận định, đây là vụ trọng án gián điệp lớn nhất, số lượng nhiều nhất, chức vụ cao nhất trong lịch sử. Trong số quan chức, tướng tá Đài Loan bị phát hiện lần này có 4 người bị coi phạm tội nghiêm trọng nhất, gồm Kim Nãi Kiệt, lon Trung tướng, cựu Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu, Hác Bảo Tài, Phó cục trưởng Cục Tình báo, Triệu Thế Chương và Dương Thiên Tiếu, lon Thượng tướng, cựu Tư lệnh Lục quân Đài Loan. Trình Nhân Hoằng và Triệu Xương Bình, 2 quan chức thuộc Ủy ban Giám sát Đài Loan phụ trách vụ trọng án này cho biết, do tính chất vụ án gián điệp đặc biệt nghiêm trọng, liên quan tới “bí mật quốc gia” nên không thể cung cấp các thông tin chi tiết cho báo chí.
......

Pages