Chiến tranh, con đường ngắn nhất dẫn đến hòa bình trên Biển Đông

Phi cơ thám thính U2 của Mỹ.

 

“…Chiến tranh bùng nổ dù là chiến tranh giới hạn, các nước nhỏ trong vùng cũng sẽ không thể tiếp tục chính sách “đu dây”, “bắt cá hai tay” hay “trung lập” mà buộc phải chọn một bên…

Trần Trung Đạo|

Lịch sử cho thấy, từ trên tang thương chết chóc, chiến tranh cũng đã mở ra một sinh lộ khác cho nhiều dân tộc. 

Nếu không có Thế Chiến Thứ Nhất, Đế Quốc Ottoman có thể còn tồn tại không biết bao lâu và các quốc gia như Tiệp Khắc, Ba Lan, Albania, Thổ Nhĩ Kỳ, Saudi Arabia, Estonia, Latvia v.v… chưa hẳn đã có mặt trên bản đồ thế giới. 

Thế giới từ đó đã thay đổi quá nhanh và quá nhiều. Khoa học kỹ thuật đã bước một bước dài. Trái đất mỗi ngày một nhỏ lại vì dân số tăng nhanh, tuổi thọ kéo dài và tử vong do bịnh tật giảm. 

Gần hai phần ba dân số thế giới đang cư ngụ tại Á Châu. Trục văn minh phát triển và cả mầm mống của những xung đột đang sinh sôi nảy nở ở Á Châu. Đầu thế kỷ 20, Trung Quốc còn là một nước chậm tiến, nhưng hiện nay là một đế quốc độc tài, chuyên chế đầy tham vọng và đang đe dọa chủ quyền của nhiều nước chung quanh. 

Sự trỗi dậy của một quốc gia không phải là điều đáng lo ngại, vì trong lịch sử nhân loại đã có nhiều quốc gia trỗi dậy bên cạnh nhiều đế quốc suy tàn. Những quốc gia như Iran đang chịu đựng sự hà khắc tôn giáo, hay Iraq đang sống trong khủng bố hàng ngày, một thời là những đế quốc văn minh và cường thịnh. 

Tuy nhiên sự trỗi dậy của Trung Cộng thì khác. Giới cầm quyền tại Trung Cộng từ Đặng Tiểu Bình tới Tập Cận Bình giương cao ngọn cờ “mối hận một trăm năm sỉ nhục”, giống như Hitler vận dụng “hiệp ước bất bình đẳng Versailles” nhưng ở mức độ cao hơn nhiều lần, và do đó tai họa trầm trọng hơn nhiều lần. 

Dân số Đức khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ là 79 triệu, trong khi dân số Trung Cộng năm 2019 là 1.428 triệu. Lý thuyết quân sự của Hitler là tấn công “chớp nhoáng” (Blitzkrieg) để ít tiêu hao, trong khi Trung Cộng dùng chiến thuật “lấy thịt đè người” làm điểm mạnh.

David M. Finkelstein trong nghiên cứu Chiến Lược Quân Sự Quốc Gia Của Trung Quốc (China’s National Military Strategy) tổng kết ba mục tiêu của Trung Cộng theo thứ tự: (1) Bảo vệ đảng và bảo vệ ổn định, (2) Bảo vệ chủ quyền và chống lại sự xâm lược, và (3) Hiện đại hóa quân đội và xây dựng quốc gia. Trong số ba mục tiêu trên “bảo vệ đảng” đứng đầu.

Quan điểm về “bảo vệ chủ quyền” của Trung Cộng, cũng theo David M. Finkelstein, không chỉ chủ quyền trên lục địa Trung Quốc mà bao gồm cả khu vực mà giới cai trị Trung Cộng gọi là “Biển Nam Trung Hoa lịch sử”. 

Tham vọng là một chuyện, thực hiện được tham vọng là chuyện khác. Muốn thống trị Á Châu, Trung Cộng phải vượt qua được Mỹ về kinh tế và nhất là kỹ thuật chiến tranh. 

Hầu hết các nhà nghiên cứu và phân tích quốc phòng đều đồng ý về kỹ thuật chiến tranh Trung Cộng còn thua quá xa Hoa Kỳ. “Thua quá xa” là bao nhiêu tùy thuộc vào thể loại vũ khí và các mẫu dữ kiện dùng để phân tích của mỗi nhà nghiên cứu. 

Chẳng hạn, theo nghiên cứu về sức mạnh nguyên tử của Trung Cộng 2019 (Chinese nuclear forces, 2019) của Hans M. Kristensen, Giám đốc Đề Án Thông Tin Nguyên Tử thuộc Liên Đoàn Khoa Học Gia Hoa Kỳ (Director of the Nuclear Information Project with the Federation of American Scientists), nếu chỉ tính đầu đạn nguyên tử, Mỹ hiện có 5.800 đầu đạn trong lúc Trung Cộng chỉ có 290 đầu đạn. Trung Cộng không ngừng gia tăng sản xuất vũ khí nguyên tử, với hy vọng mười năm nữa trong kho sẽ có từ 400 đến 500 đầu đạn. 

Bài học Chiến Tranh Triều Tiên cho các nhà chiến lược Mỹ thấy không thể ngăn chận sức tấn công biển người của Trung Cộng trong chiến tranh quy ước. Để đánh bại Trung Cộng, chiến tranh hạt nhân phải được đặt ra. Thật ra ngay cả trong chiến tranh Triều Tiên, đối diện với chiến thuật biển người của Trung Cộng, việc sử dụng bom nguyên tử cũng đã được nghĩ tới mặc dù Thống tướng Douglas MacArthur chưa bao giờ chính thức yêu cầu.

Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra, từ thời điểm này cho đến khi Trung Cộng công khai thách thức Mỹ về quân sự. Các bài học lịch sử cho thấy một biến cố nhỏ có thể khơi mào cho một cuộc xung đột chiến tranh lớn. 

Tuần rồi Trung Cộng bắn hai hỏa tiễn vào Biển Đông như một cách để trả đũa việc máy bay thám thính U-2 của Mỹ bay trong khu vực Trung Cộng gọi là “vùng cấm bay quân sự” (No-fly zone). Hai hỏa tiễn, một DF-26 có tầm xa 4.000 km và một DF-21 có tầm xa khoảng 1.800 km. Cả hai rơi vô hại trong khu vực giữa Hoàng Sa và Hải Nam. 

Khi đọc bản tin Trung Quốc bắn cảnh cáo, người viết thầm ước phải chi xạ thủ Trung Cộng lỡ tay bắn lạc về hướng của một trong những khu trục hạm nguyên tử của Mỹ như USS Barry, USS Mustin, USS Rafael, hay bắn lạc vào hướng của hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan đang tuần tra khu vực Tây Thái Bình Dương, hoặc USS Nimitz đang tuần tra khu vực Đông Thái Bình Dương. 

Bộ Tư Lịnh Không Lực Thái Bình Dương Hoa Kỳ (US Pacific Air Forces) xác nhận U-2 có bay nhưng không vi phạm luật quốc tế nào và sẽ tiếp tục bay. Bản thông cáo báo chí viết: “Một chuyến bay của U-2 đã được tiến hành trong khu vực hoạt động của Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và trong khuôn khổ các quy tắc và quy định quốc tế được chấp nhận. Không Lực Thái Bình Dương sẽ tiếp tục bay và hoạt động ở bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép, vào thời điểm và nhịp độ do chúng tôi lựa chọn."

Chiến tranh Châu Á bùng nổ một cách đột biến, ngoài dự tính và không chuẩn bị của các bên là giải pháp nhanh gọn và là con đường ngắn nhất để chận đứng tham vọng bành trướng của Tập Cận Bình trên Biển Đông. 

Tại sao? 

Bởi vì mười năm hay hai chục năm nữa hệ thống quốc phòng của cộng sản Việt Nam, Philippines, Mã Lai hay các nước nhỏ quanh Trung Cộng cũng không thay đổi và cho dù có cải tiến cũng chẳng làm mới được bao nhiêu. 

Tuy nhiên, một năm đối với Trung Cộng là một bước thay đổi lớn. Giống như Hitler chạy đua với thời gian từ 1935 đến 1939 để đưa quân số Đức từ một trăm ngàn lên đến hơn bốn triệu, Tập Cận Bình chủ trương hiện đại hóa quốc phòng bằng mọi cách, kể cả tung gián điệp để mua chuộc những kẻ ham tiền hay bần tiện hơn là ăn cắp. 

Nhật Bản và Hoa Kỳ, trong lãnh vực an ninh và quốc phòng, đang gần nhau hơn bao giờ hết. Xung đột biên giới giữa Ấn Độ và Trung Cộng đang diễn ra không chỉ còn trong bàn hội nghị mà cả ngoài mặt trận. Vòng vây Trung Cộng mỗi thời kỳ thêm siết chặt nhưng sẽ rất chậm vì các quan hệ kinh tế thương mại chồng chéo lên nhau. 

Chiến tranh bùng nổ dù là chiến tranh giới hạn, các nước nhỏ trong vùng cũng sẽ không thể tiếp tục chính sách “đu dây”, “bắt cá hai tay” hay “trung lập” mà buộc phải chọn một bên. Các chế độ độc tài, nhu nhược, đi ngược với quyền lợi sống còn của dân tộc sẽ bị nhân dân lật đổ. Vì quyền lợi hậu chiến, các nước phát triển sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong việc nhổ cây đinh Trung Cộng, hay ít nhất đẩy Trung Cộng trở vào lục địa. 

Giới cầm quyền Trung Cộng khi đó sẽ đứng trước viễn ảnh bị vỡ nát theo một cuộc chiến tranh toàn diện, hay thỏa hiệp để bảo vệ lục địa. Nếu chọn lựa bảo vệ lục địa, nhiệm vụ bảo vệ đảng của quân đội sẽ quan trọng hơn bảo vệ chủ quyền trên các hải đảo xa xôi. Các “status quo” dưới hình thức đảo nhân tạo do Trung Cộng đơn phương thiết lập sẽ bị tháo gỡ.

Đó là những viễn ảnh đầy lý tưởng. Đưa ra những hình ảnh lạc quan không phải để rồi đắp chiếu ngủ chờ ngày mai trời sẽ sáng, Trung Cộng sẽ sụp đổ, đảng Cộng sản sẽ bước xuống, nhưng để cùng nhau nỗ lực để đưa đất nước ra khỏi chế độ độc tài cộng sản mở đường hội nhập vào dòng sống dân chủ văn minh của nhân loại và thời đại. 

Con đường trước mặt rất gian nan nhưng sẽ rất vinh quang.